Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991; bổ sung, phát triển năm 2011) cùng một số văn kiện khác
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động".
Đó là một
quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Thế nhưng vẫn còn có những ý kiến sai trái, phản
bác lại quan điểm này, mà xét cho kỹ là do không nắm vững phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Trong
"Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc
(nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn: Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, học lập trường,
quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để vận dụng vào tổng kết những
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước
ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần biết được quy luật phát triển của
cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của
cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta. Không phải học để
thuộc lòng từng câu, từng chữ. Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý
luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta. Do
không thấm nhuần lời căn dặn trên đây, nên đã có một số ý kiến sai lầm như sau:
Một là, Chủ
nghĩa Mác là sản phẩm của Tây Âu. Mác và Ăng-ghen sống ở Đức, Pháp, Anh; các
ông đã kế thừa có phê phán các luồng tư tưởng của phương Tây (Triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội Pháp) để xây dựng học
thuyết của mình. Các ông chưa hiểu về phương Đông, châu Phi, Mỹ la-tinh, nên học
thuyết của các ông chỉ phù hợp với phương Tây, không phù hợp với các nơi khác
trong đó có Việt Nam, vì Việt Nam có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, tư tưởng.... khác với Tây Âu. Mác và Ăng-ghen đã mắc sai lầm lấy cái bộ phận
(Tây Âu) làm trung tâm để xem xét cái toàn thể (cả thế giới). Không phải Mác và
Ăng-ghen lấy cái bộ phận (Tây Âu) để xem xét cái toàn thể (cả thế giới) mà theo
nguyên tắc "thống nhất giữa lý luận và thực tiễn" và "nghiên cứu
một cơ thể đã phát triển thì dễ hơn là nghiên cứu tế bào của cơ thể đó";
nên khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các ông đã chọn nước
Anh là nước điển hình cho sự phát triển của phương thức sản xuất này và đã đạt
tới trình độ cao hơn các nước khác vào thời điểm đó, để minh họa chủ yếu cho sự
trình bày lý luận của mình. Tuy vậy, ngay cả ở nước Anh khi ấy cũng chưa có chủ
nghĩa tư bản thuần khiết mà vẫn còn những tàn dư của các phương thức sản xuất
trước, như kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa nhỏ... Vì vậy, để
tìm ra các quy luật vận động của xã hội hiện đại, tức là xã hội tư bản chủ
nghĩa, Mác đã áp dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, gạt bỏ những tàn dư
nói trên, nêu lên những giả định: Một là, nền sản xuất xã hội đã hoàn toàn bị
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối, mọi của cải đều biểu hiện dưới
hình thái hàng hóa, kể cả sức lao động. Hai là, khi nghiên cứu công nghiệp và dịch
vụ chỉ xét quan hệ giữa hai chủ thể là công nhân làm thuê và nhà tư bản; khi
nghiên cứu nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa mới xét quan hệ giữa ba giai
cấp cấu thành bộ xương sống của xã hội hiện đại: công nhân làm thuê, nhà tư bản
đầu tư vào nông nghiệp và chủ sở hữu ruộng đất. Nhưng không xét từng người cụ
thể mà xét họ trong chừng mực là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là đại
biểu cho những quan hệ và những lợi ích giai cấp nhất định.
Bởi vậy, khi
vận dụng lý luận vào thực tiễn phải đặt mối nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Nếu bối cảnh phù hợp với những giả định đã nêu
thì sẽ vận dụng trực tiếp, không kể là ở phương Tây hay phương Đông, không kể
là châu Phi hay Mỹ la-tinh. Nếu bối cảnh lịch sử có những nét đặc thù, thì phải
tính tới những nét đặc thù đó. Chẳng hạn, trong một nền kinh tế đang quá độ từ
chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản hay đang quá độ từ tiểu nông lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì chỉ có thể vận dụng lý luận về
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào hoạch định chính sách phát triển bộ
phận (hay thành phần) kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước, không
thể vận dụng vào sản xuất hàng hóa nhỏ hay kinh tế tự nhiên.
Hai là, Mác
và Ăng-ghen mới nghiên cứu chủ nghĩa tư bản sơ kỳ trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất, chưa bộc lộ hết những đặc trưng và xu hướng phát triển của
nó, nên còn nhiều nhận xét và dự báo không phù hợp với chủ nghĩa tư bản hiện đại,
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Dĩ nhiên là
Mác và Ăng-ghen phải dựa vào thực tiễn của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất để
nghiên cứu chủ nghĩa tư bản nhưng các ông cũng đã phát hiện nhiều xu hướng phát
triển tất yếu của đại công nghiệp.
Trong "Lời
bạt viết cho lần xuất bản thứ hai quyển I "Tư bản", Mác đã trích dẫn
bài bình luận về phương pháp của tác phẩm "Tư bản" đăng trên tạp chí
"Người truyền tin châu Âu" ở Pe-téc-bua mà Mác cho là đúng: "Đối
với Mác, chỉ có điều này là quan trọng: tìm ra quy luật của những hiện tượng mà
ông nghiên cứu. Hơn nữa, điều quan trọng đối với ông không phải chỉ là cái quy
luật chi phối những hiện tượng ấy trong lúc chúng đang ở dưới một hình thái nhất
định và đang nằm trong mối quan hệ qua lại mà ông quan sát được trong một lúc
nhất định. Đối với ông điều quan trọng hơn cả là quy luật biến hóa của các hiện
tượng, quy luật phát triển của chúng, tức là sự chuyển hóa từ một hình thái này
sang một hình thái khác, từ một trật tự quan hệ qua lại này sang một trật tự
quan hệ qua lại khác..."
"Muốn thế,
chỉ cần là khi chứng minh tính tất yếu của trật tự hiện thời ông chứng minh
luôn cả tính tất yếu của một trật tự khác mà trật tự hiện thời nhất thiết phải
chuyển sang, dù người ta có nghĩ đến hay không nghĩ đến điều đó, dù người ta có
ý thức hay không có ý thức về điều đó. Ông coi sự vận động xã hội như là một
quá trình lịch sử tự nhiên".
Khi phân tích
vai trò của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất, Mác đã nhấn mạnh:
"Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái
gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động
nào"[3]. Các tư liệu lao động không những là thước đo sự phát triển sức
lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong
đó lao động được tiến hành. Cơ sở kỹ thuật của công nghiệp hiện đại có tính chất
cách mạng, nhờ dùng máy móc, nhờ các quá trình hóa học và các phương pháp khác
nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ sở vật chất của nền sản
xuất và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã
hội của quá trình lao động.
Chúng ta
không thể kỳ vọng Mác và Ăng-ghen chỉ ra một cách cụ thể những giải đoạn kế tiếp
sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất sản xuất bằng công nghệ nào, với những
tư liệu lao động nào, nhưng theo phương pháp đã dẫn ra ở trên, các ông đã dự
báo rất đúng nhiều xu hướng phát triển của đại công nghiệp. Thí dụ: Theo đà
phát triển của đại công nghiệp, máy móc sẽ từng bước thay thế lao động giản
đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn sẽ trở thành
một quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về mặt lượng được quy vào một phần
nhỏ hơn, về mặt chất được chuyển hóa thành một yếu tố nào đó, tuy cần thiết
nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến, so với sự áp dụng khoa học
tự nhiên vào công nghệ. Như vậy, việc tạo ra của cải thực sự trở nên lệ thuộc
ít hơn vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí, và phụ thuộc nhiều
hơn vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ
thuộc vào sự ứng dụng khoa học vào sản xuất. Tính chất của lao động cũng thay đổi,
lao động không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ
yếu là loại lao động trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều
tiết bản thân quá trình sản xuất; thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản
xuất công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy.
Tri thức, khoa
học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Phát minh trở thành một
nghề đặc biệt, và đối với nghề này thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất
trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và
kích thích. Đại công nghiệp đòi hỏi giáo dục bách khoa và những con người phát
triển toàn diện.
Những dự báo
khoa học sẽ phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn, không nên mặc nhiên coi là
những nguyên lý, mặc dù hầu hết các dự báo của Mác, Ăng-ghen và Lê-nin đều
đúng. Chính các ông cũng thường xuyên kiểm lại các quan điểm của mình khi tình
hình thực tiến biến đổi. Thí dụ: Trong "Lời tựa viết cho bản tiếng Đức
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" xuất bản năm 1872, Mác và Ăng-ghen đã
viết: "Xét về đại thể những nguyên lý tổng quát trình bày trong Tuyên ngôn
này vẫn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính
ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào việc
áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và
do đó, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương
II. Đoạn này ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt cũng phải viết khác đi, vì đại
công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn, trong hai mươi lăm năm qua và
giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức
thành chính đảng"...
Tóm lại, vẫn
có thể vận dụng phương pháp nghiên cứu của Mác và Ăng-ghen về phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa vào xem xét sự vận động của xã hội tư bản hiện đại./.
PVĐ-H4
0 nhận xét:
Đăng nhận xét