CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

BÀI DỰ THI BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG SỨC SỐNG CỦA MỘT HỌC THUYẾT KHOA HỌC, CÁCH MẠNG VÀ NHÂN VĂN

 

1. Bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa xã hội khoa học được thể hiện tập trung trong cách mạng vô sản

Sự phát triển lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin kể từ khi ra đời cho đến nay đều gắn liền với cuộc cách mạng vô sản mà nổi bật nhất là cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách mạng mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Trong khi xây dựng và phát triển lý luận khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật để phân tích sâu sắc mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người và đã vạch ra quy luật phát triển tự nhiên của xã hội. Các ông đã chỉ ra rằng: xã hội phong kiến thay thế xã hội nô lệ, chủ nghĩa tư bản thay thế xã hội phong kiến, chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản là xu thế tất yếu không thể đảo ngược được của sự phát triển xã hội. Đồng thời, căn cứ vào quy luật vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản (trong giai đoạn tự do cạnh tranh), C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo, cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và giành thắng lợi ở những nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến nhất. Đồng thời, các ông cũng lưu ý rằng, do việc cạnh tranh và giao lưu rộng rãi với các nước công nghiệp phát triển, ở những nước công nghiệp chưa phát triển sẽ nảy sinh những mâu thuẫn như giữa sức sản xuất với hình thức giao lưu... và trong điều kiện này thì chúng ta không cần đợi đến mâu thuẫn phát triển đến mức tột cùng của nó. "Nếu chúng ta bắt buộc phải đợi, Ph.Ăngghen nhấn mạnh cho đến sau khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến cùng, một tiểu nông cuối cùng đều biến thành vật hy sinh của nền đại sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì mới thực hiện sự cải tạo này, điều đó sẽ quá tồi tệ đối với chúng ta"[1]. Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, ở các nước chậm phát triển cũng có khả năng xảy ra cuộc cách mạng vô sản khi những điều kiện của cuộc cách mạng đã chín muồi và chúng ta không nên bỏ lỡ cơ hội này để chờ chủ nghĩa tư bản "phát triển chín muồi" mới tiến hành cách mạng.

V.I.Lênin đã phân tích sâu sắc và toàn diện sự vận động của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và chỉ ra rằng: "Sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản..."[2] và "do đó đi đến kết luận tất yếu này: Chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời thắng lợi trong tất cả các nước. Trước hết nó thắng lợi trong một nước, hoặc một số nước..."[3] - nơi mà ở đó, các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản phát triển tập trung và gay gắt đến tột cùng của nó; và do đó, nó trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Thực tiễn xã hội đã xác nhận rằng, khâu yếu ấy đã xuất hiện ở nước Nga (năm 1917) trong bối cảnh Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Bởi lẽ, tuy sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Nga chưa đầy đủ, nhưng các mâu thuẫn xã hội đã phát triển tập trung và gay gắt nhất, đồng thời những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng đã phát triển chín muồi. Trong điều kiện này, V.I.Lênin đã kiên quyết lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi.

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, một loạt các nước đã phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống trên thế giới. Có thể nói, chủ nghĩa xã hội tuy mới ra đời và đang trong quá trình thử nghiệm tìm tòi, nhưng đã giữ vai trò to lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại ở thế kỷ XX. Chủ nghĩa xã hội đã chiến thắng chủ nghĩa phát xít, làm cân bằng thế lực chiến tranh và bảo vệ hòa bình thế giới, thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, chôn vùi chủ nghĩa thực dân, đồng thời tạo áp lực buộc chủ nghĩa tư bản phải tự điều chỉnh thích nghi và cải cách, từ đó mà chủ nghĩa xã hội đã có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn minh thế giới phát triển như ngày hôm nay.

2. Từ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa xã hội khoa học phân tích xã hội hiện đại

Vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng vào phân tích những sự kiện lớn của xã hội hiện đại, nhất là sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu và những thành công trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.

Trước hết, cần khẳng định rằng sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, càng không phải là sự thất bại của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể về chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội để thay thế chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội mới ra đời và đang còn là những thử nghiệm ban đầu; vì vậy, nó không tránh khỏi những đổ vỡ, mất mát, thậm chí cả giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và thất bại tạm thời, nhưng cuối cùng vẫn khẳng định được mình - đó là biện chứng của lịch sử, là quy luật phát triển tự nhiên của đời sống xã hội. Sự ra đời mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là tất yếu lịch sử, còn sự sụp đổ của nó sau này là có thể tránh được. Song, cái "có thể tránh được" này lại vẫn xảy ra - đó là "nghịch lý của lịch sử". Ph.Ăngghen đã từng nói rằng, mỗi sự kiện lịch sử to lớn đều là kết quả của "hợp lực". Sự kiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không phải là một vài nhân tố tác động, mà nó là kết quả của việc tích tụ lâu dài các mâu thuẫn và nguy cơ ngày càng phát triển theo chiều hướng xấu ở các nước này đã không được giải quyết; công cuộc cải tổ chủ nghĩa xã hội diễn ra một cách "duy tâm", "nửa vời" và theo hướng "phủ định sạch trơn", "phá tan triệt để" cùng với "diễn biến hòa bình" của các nước phương Tây... đã đưa đến thảm kịch này.

Thứ hai, những thử nghiệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XX đều diễn ra ở các nước có trình độ lạc hậu, điều này đặt ra "bài toán khó lịch sử cho các đảng cộng sản ở những nước này: Củng cố thành quả cách mạng như thế nào, xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội ra sao với nền kinh tế lạc hậu, trình độ dân trí thấp và trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản luôn bao vây, đe dọa và đàn áp..." Có thể nói, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện này là hoàn toàn mới mẻ và cực kỳ khó khăn. Chúng ta thiếu cả cơ sở vật chất, kỹ thuật, thiếu cả lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Điều này đã được V.I.Lênin nhiều lần nhắc nhở: "phải cải tạo nền kinh tế tiểu nông và người nông dân (sản phẩm của nền kinh tế đó) một cách kiên trì, lâu dài và trải qua nhiều thế hệ; rằng, những người cộng sản không được nóng vội, chủ quan, mà phải không ngừng học tập, rèn luyện, phát huy tính tích cực, sáng tạo, cách mạng... Bởi lẽ, xây dựng chủ nghĩa xã hội như con người chinh phục đỉnh núi cao chưa được khám phá, chưa có dấu chân người; vì vậy, phải sẵn sàng chịu đựng hàng ngàn khó khăn, sẵn sàng thử nghiệm hàng ngàn lần, hơn nữa, sau khi chúng ta làm thử nghiệm một ngàn lần rồi, thì sẵn sàng làm thử lần thứ một ngàn lẻ một..."[4].

Vận dụng bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa xã hội khoa học vào phân tích cuộc "thử nghiệm" đầu tiên - "chính sách cộng sản thời chiến" và căn cứ vào tình hình quốc tế và nước Nga lúc đó, V.I.Lênin đã rút ra kết luận rằng, cần phải thay đổi căn bản quan niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội. Và ông đã đưa ra và thực hiện một mô hình mới về con  đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước mà nền kinh tế còn lạc hậu - đó là “Chính sách kinh tế mới” (NEP). Chỉ sau ba năm thực hiện NEP, nước Nga lúc đó đã khắc phục được tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, và điều quan  trọng là nó chỉ ra con đường quá độ "gián tiếp" lên chủ nghĩa xã hội với những nước chưa có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Tiếc rằng, vì nhiều lí do khác nhau, Đảng Cộng sản Liên Xô sau đó không áp dụng và phát triển NEP một cách triệt để, mà áp dụng mô hình khác về chủ nghĩa xã hội (nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ với cơ chế quan liêu, bao cấp) và về sau này nó trở thành "vật cản" cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.

Thứ ba, dưới ánh sáng khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, Việt Nam tiến hành đổi mới thành công đã mang lại một sức sống mới và diện mạo mới cho chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam, đổi mới "không phải là sự thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và những biện pháp thích hợp"[5]. Từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa bằng “đổi mới” là một phát kiến mang tính khoa học và cách mạng của Việt Nam trong bối cảnh mới. Nó thể hiện sâu sắc tinh thần khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành xu thế tất yếu của thời đại hiện nay, cùng với sức sống mới của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI.

Có thể nói, tấm gương kiên trì mục tiêu xã hội chủ nghĩa với những thành tựu nổi bật của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam không chỉ là nguồn cổ vũ lớn lao, mà còn tạo ra xung lực mạnh mẽ cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở thế kỷ XXI.

Thứ tư, trong xã hội hiện đại, chủ nghĩa tư bản đã có những bước phát triển mới. Do có sự tự điều chỉnh, cải cách để thích nghi với hoàn cảnh mới, do vận dụng tối đa những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ vào sản xuất và sử dụng chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa như một công cụ điều tiết vĩ mô, vận hành nền kinh tế theo quy luật khách quan nên chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu to lớn về phương diện "kinh tế". Trong những thập kỷ tới, chủ nghĩa tư bản vẫn có khả năng tự điều chỉnh và thích ứng với yêu cầu phát triển mới của lực lượng sản xuất; và do vậy, nó sẽ tiếp tục mang lại những thành quả to lớn về kinh tế cho nhân loại. "... nhưng về bản chất vẫn là chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra"[6]. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì càng tích tụ thêm nhiều khuyết tật và làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột vốn có của nó (bóc lột, đói nghèo, thất học, khủng hoảng môi trường, cạn kiệt tài nguyên, chiến tranh, tội ác...) mà trong phạm vi của chủ nghĩa tư bản và với tầm hạn chế của hệ tư tưởng tư sản thì không thể nào giải quyết được. Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản đã và đang chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để từng bước thay thế và phủ định nó bằng những phương thức và biện pháp thích hợp.

3. Về tương lai của chủ nghĩa xã hội

Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực với lịch sử gần 100 năm - đó là khoảnh khắc ngắn ngủi trong lịch sử nhân loại, hơn nữa nó lại đang trong giai đoạn mở đầu với những "thử nghiệm". Mặc dù vậy, chủ nghĩa xã hội đã thể hiện sức sống mãnh liệt trong đời sống kinh tế, chính trị, tinh thần của nhân loại ở thế kỷ XX và tạo ra những giá trị nhân văn ở thế kỷ XXI, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh thích nghi nếu muốn tồn tại, góp phần thúc đẩy hòa bình, tiến bộ của nhân loại trên thế giới. Trước đây, trong bầu không khí "chiến tranh lạnh" người ta thường so sánh: "chủ nghĩa xã hội tốt" - "chủ nghĩa tư bản xấu", "chủ nghĩa xã hội mạnh" - "chủ nghĩa tư bản yếu". Sau "chiến tranh lạnh", người ta lại đưa ra so sánh: "chủ nghĩa tư bản giàu" - "chủ nghĩa xã hội nghèo", "chủ nghĩa tư bản mạnh" -  "chủ nghĩa xã hội yếu", "chủ nghĩa tư bản tấn công" - "chủ nghĩa xã hội phòng thủ"... Vấn đề này được một cha cố người Nicaragoa đã viết Ghi chép châu Mỹ của Mêhicô rằng: "Giới báo chí dương dương tự đắc tuyên bố trên toàn thế giới về thất bại của chủ nghĩa xã hội, nhưng họ lại không nhắc đến thất bại lớn hơn của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản chỉ giành được thành công trong 10% hoặc 20% dân số thế giới. Đối với thế giới thứ ba, đối với những người nghèo chiếm đại đa số mà nói, chủ nghĩa tư bản mang tính tai ương, và thất bại của chủ nghĩa tư bản còn lớn hơn thất bại của chủ nghĩa xã hội"[7].

Trong bối cảnh hiện tại - "một thế giới, hai chế độ" - cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều "cùng chung sống" trong khoảng thời gian nhất định. Trong đó tiếp tục cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa hai con đường: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa; đồng thời tiếp tục cuộc đấu tranh về ý thức hệ giữa ý thức hệ tư sản và ý thức hệ giai cấp công nhân cách mạng. Cuộc đấu tranh này ngày càng phức tạp và gay gắt hơn, khi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng, phong trào cách mạng thế giới đang tạm thời lâm vào thoái trào sau sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu. Trong cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ, nhất định chủ nghĩa xã hội sẽ chiến thắng, như Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định hiện nay: "Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"[8].

Như vậy, gần hai thế kỷ đã đi qua, với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của mình, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng đã trở thành ngọn cờ cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, chỉ đường cho các cuộc cách mạng vô sản giành được nhiều thắng lợi. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời, tồn tại đã tỏ rõ tính ưu việt hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Mặc dù gặp phải tổn thất lớn do sự đổ vỡ của Liên Xô và Đông Âu, song chủ nghĩa xã hội đang từng bước thể hiện sức sống như ở Trung Quốc, Việt Nam và trong lòng nhân loại tiến bộ trên thế giới. Bản chất cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin mãi tỏa sáng soi rọi con đường xã hội chủ nghĩa - con đường đưa nhân loại đến cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc./.

 



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 4, tr. 500.

[2] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 447.

[3] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 173.

[4] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 379.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 53.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 68.

[7] Tiêu Phong, Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản: Hai chủ nghĩa một trăm năm, Nxb Thế giới đương đại, Trung Quốc, tr. 126.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 69.

0 nhận xét: