Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là bộ tham mưu, đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 93 năm qua, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, vẻ vang cả trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Là sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng”.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng, Đảng cách mạng
Học thuyết Mác-Lênin chỉ ra rằng: Lịch sử xã
hội loài người từ khi có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai
cấp ban đầu là nhằm vào mục đích kinh tế. Cuộc đấu tranh đó phát triển đến một
trình độ nhất định thì chuyển hoá thành đấu tranh chính trị. Đấu tranh chính
trị là cuộc đấu tranh biểu hiện tập trung nhất, bao quát nhất và mạnh mẽ nhất
của cuộc đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị về
tay một giai cấp. Cuộc đấu tranh này phát triển đến một giai đoạn nhất định thì
chính đảng ra đời. Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự
nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo
thống nhất mọi hoạt động của giai cấp, nhằm hướng các nỗ lực chung vào mục tiêu
chống lại giai cấp đối lập cùng với nhà nước thống trị của giai cấp đó. Theo
quy luật này thì trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống giai cấp địa
chủ phong kiến và nhà nước thống trị của nó dẫn đến sự ra đời chính đảng của
giai cấp tư sản là tất yếu khách quan. Cũng như vậy, trong cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản và nhà nước thống trị của nó tất
yếu dẫn đến sự ra đời của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người
đầu tiên đã luận giải một cách đúng đắn và khoa học về sự tất yếu diệt vong của
chủ nghĩa tư bản, chỉ ra vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
người lật đổ chế độ đó, xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Nhưng theo các ông thì sứ mệnh lịch sử đó chỉ có thể thực
hiện được khi giai cấp công nhân tự tổ chức ra được chính đảng độc lập. C.Mác
và Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền lực liên
hợp của các giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một
chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp có của nó
lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức như
vậy giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của
cách mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng là thủ tiêu các giai cấp”[1].
Là người kế tục sự nghiệp vĩ đại
của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo và hoàn chỉnh học
thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác. Người đã sáng lập ra Đảng Bôn sê vích
Nga- một Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, một mẫu mực để xây dựng các Đảng
mác xít của giai cấp công nhân. V.I.Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò quyết
định của Đảng vô sản đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản, coi đó là
đòn bẩy mạnh mẽ, có khả năng “đảo lộn nước Nga”.
Đầu thế kỷ XX, Việt Nam đứng trước
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về đường lối. Trước cảnh “nước mất nhà tan” do bị
thực dân Pháp xâm lược, hàng loạt cuộc đấu tranh chống giặc cứu nước, giành lại
độc lập tự do cho dân tộc đã nổ ra. Tất cả các phong trào cứu nước theo các
khuynh hướng, ý thức hệ khác nhau trước khi có Đảng Cộng sản ra đời đều thất
bại, bị dìm trong bể máu.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, tuy không tán
thành đường lối cứu nước của phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến và phong
trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh vẫn
chưa có được quan niệm ngay từ đầu cần có một tổ chức chính trị để lãnh đạo
cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Người đi sang các nước, nhất là các nước đế
quốc - đầu tiên là nước Pháp, nước đang xâm lược Việt Nam để nghiên cứu, xem
xét tìm con đường cứu đồng bào ta thoát khỏi cảnh bị đoạ đày đau khổ. Qua hoạt
đông thực tiễn, lăn lộn với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên thế giới, Người đã gặp và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm
thấy ở học thuyết Mác-Lênin con đường giải phóng dân tộc, đưa đất nước phát
triển đi lên độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Sự kiện Người đọc “Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin
(7-1920) đã đánh dấu việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin tìm ra con
đường của cách mạng Việt Nam. Từ đây, tư tưởng về sự cần thiết phải thành lập
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân ở nước ta dần được hình thành. Tư
tưởng này được tiếp thêm cơ sở của thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga 1917 dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn Sê vích Nga thành công rực rỡ. Từ chỗ tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị điều
kiện cần thiết cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước tiên là việc
Người thành lập Hội Việt nam cách mạng thanh niên (6-1925) tại Quảng Châu-
Trung Quốc để tổ chức đào tạo cán bộ, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin về nước.
Tại các lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu, Hồ Chí Minh đặt vấn đề “cách mạng
trước hết phải có cái gì ?”. Người khẳng định: cách mạng “trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”[2].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, vai trò
của Đảng đối với cách mạng Việt nam là vô cùng quan trọng. Để cách mạng giành
thắng lợi cần có những nhân tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài,
dân tộc và thời đại... nhưng nhân tố quan trọng nhất, “trước hết”, phải có đảng
cách mạng. Sau từ “trước hết” ở đây Hồ Chí Minh dùng chữ “phải” có nghĩa là bắt
buộc, tuyệt đối, không có sự lựa chọn nào khác!. Nhiệm vụ của Đảng là “để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc và giai cấp
vô sản mọi nơi”.
Cách mạng, theo quan niệm của Hồ
Chí Minh là phá cái cũ xây cái mới, phá cái xấu xây cái tốt, là lật đổ chế độ
thực dân phong kiến đã đè nén con người Việt Nam nhiều thập niên để xây dựng
nên một xã hội hoàn toàn mới, do đó, “Cách mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp.
Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình
hình, đường lối và định phương châm cho đúng”[3].
Sự nghiệp đấu tranh lâu dài gian
khổ đó không tránh khỏi phải hy sinh, mất mát nên cần đến Đảng lãnh đạo, để
chớp thời cơ mà đề ra đường lối thực hiện, đưa lại thắng lợi cho cách mạng,
tránh hiện tượng “chưa nên làm đã làm”, thời cơ chưa đến nhưng lại hành động
theo kiểu tự phát, không có sự tính toán kỹ lưỡng, không có mưu trước, tính
sau. Đồng thời tránh “khi nên làm lại không làm”, thời cơ đến nhưng lại không
biết chớp lấy mà hành động để nó trôi qua nhanh chóng dẫn đến cách mạng không
thể thành công. Nhân dân cần đến Đảng để chỉ đường vạch lối cho dân, chỉ bảo
cách hành động. Đảng có đường lối đúng đắn, có phương pháp cách mạng thích hợp
quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng. Chỉ có Đảng- Đảng cách mạng- mới bảo
đảm tính triệt để của cách mạng, mới đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cách
mạng trước hết và cần thiết phải có Đảng để đề ra đường lối chiến lược, sách
lược cho cách mạng - là những vấn đề then chốt của cách mạng, nó quyết định sự
thành bại của cách mạng. Ở trong nước, Đảng làm nhiệm vụ vận động, giác ngộ, tổ
chức dân chúng tập hợp họ lại trong khối thống nhất để thực hiện mục đích,
nhiệm vụ của cách mạng. Đảng còn có vai trò đối với quốc tế, là cầu nối giữa
cuộc cách mạng giải phóng đất nước, xây dựng xã hội mới của dân tộc với công
cuộc cách mạng của các dân tộc, các lực lượng tiến bộ trên thế giới để thực
hiện mục tiêu chung là: hoà bình, độc lập, dân chủ, hạnh phúc: “Ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc liên kết với nhau
để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản quốc tế nên các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi phải liên hệ chặt chẽ với nhau để
chống kẻ thù chung. Điều này còn do con đường cứu nước của Việt Nam mà Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội, thực hiện giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng
con người. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm khẳng định: “Cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng
chí của Việt Nam”[4]. Người đã gắn
cách mạng nước ta với phong trào của các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh
giành độc lập dân tộc và cả với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các
nước tư bản “chính quốc”, với vô sản giai cấp mọi nơi. Cách mạng trước hết là
sự nghiệp của mỗi dân tộc, muốn giành thắng lợi phải dựa vào sức mình là chính,
song phải biết tranh thủ sức mạnh quốc tế, sức mạnh của thời đại để đưa cách mạng
tiến lên. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng mới kết hợp được sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại.
Từ những lý do trên ta thấy, Đảng
Cộng sản ra đời và tồn tại như là một tất yếu lịch sử là vì Tổ quốc, dân tộc có
nhu cầu, vì Đảng đáp ứng được yêu cầu tất yếu của sự phát triển của cả dân tộc,
vì nhân dân cần một Đảng tiên phong dẫn đường. Để Đảng thực hiện được vị trí
vai trò của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: “Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[5].
Khi đề cập tới tổ chức của Đảng, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”[6]. Đây là tiêu chí
đánh giá, phân định rạch ròi giữa tổ chức của một Đảng chân chính, một Đảng
Cộng sản đích thực, với tất cả các đảng phái, các tổ chức chính trị đã xuất
hiện trong lịch sử, được diễn đạt rất Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân. Đảng vĩ đại là ở nơi Đảng biết tìm thấy sức mạnh từ trong nhân dân, vì
nhân dân mà làm việc, đủ năng lực dẫn dắt nhân dân biết “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”. Đảng ra đời và tồn tại không có mục đích nào khác hơn là phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là tối thượng, là sức mạnh, vì vậy, Đảng
phải xây dựng mình thành một tổ chức chính trị gắn bó máu thịt với nhân dân,
phải làm đầy tớ thật trung thành của nhân dân, nghĩa là lãnh đạo và phục vụ
nhân dân. Và như vậy, mị dân, theo đuôi quần chúng, quan liêu, dối trá, cửa
quyền, hống hách với dân hay trù dập quần chúng đều trái với tư cách của người
đảng viên, làm tổn hại đến Đảng. Hồ Chí Minh còn nói: Đảng ta vĩ đại vì nó bao
trùm cả nước, đồng thời nó gần gụi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta.
Từ quan hệ gốc ấy Đảng sẽ giải
quyết tốt các mối quan hệ khác: Đảng và Nhà nước; Đảng với các đoàn thể nhân
dân; Đảng với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; với các tôn giáo, dân
tộc...Trong tất cả các mối quan hệ ấy, nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng ở mỗi thời kỳ một khác. Nhưng Hồ Chí Minh đã để lại những chỉ dẫn quan
trọng. Một là, bất cứ hoàn cảnh nào Đảng cũng phải giữ vững vai trò lãnh đạo
của mình. Không chỉ trong đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả khi đã giành
được chính quyền về tay nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, sự cần thiết phải có Đảng
không chỉ trong đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả khi đã thắng lợi, giành
được chính quyền về tay nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về “cách
mạng trước hết phải có Đảng cách mạng” cho ta thấy rằng: Đảng ra đời là một tất
yếu khách quan, do đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng một xã hội mới tự do, ấm no, hạnh phúc cần phải có lực lượng lãnh đạo.
Chính từ đòi hỏi khách quan ấy mà phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững
mạnh. Muốn vậy, Đảng phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Đây là một trong những
nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi nói về vấn đề này Hồ Chí
Minh thường dùng cụm từ “trước hết”: “Trước hết phải chỉnh đốn lại Đảng”,
“Trước hết nói về Đảng” hoặc “trước tiên”, “việc chính”, “việc cần kíp”, “việc
phải làm ngay” chứng tỏ Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công việc chỉnh đốn Đảng.
Nhưng theo Hồ Chí Minh, đây không phải là một giải pháp tình thế, thụ động mà
là điều kiện cần và đủ để đảm bảo giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong các
giai đoạn của cách mạng. Với vị trí vai trò, địa vị của Đảng là người lãnh đạo
toàn xã hội, trọng trách của Đảng là rất lớn. Đảng cũng là một thực thể xã hội,
do đó, quá trình xây dựng và hoạt động không thể tránh khỏi sai lầm, khuyết
điểm. Vì vậy, phải tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng để Đảng phát huy được
những ưu điểm, khắc phục được những sai lầm khuyết điểm, làm cho Đảng không
ngừng lớn mạnh, thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc thường xuyên kiểm điểm rút kinh
nghiệm, tự phê bình, phê bình đối với mỗi cá nhân và tổ chức Đảng. Theo Người,
đó là nhằm để làm cho phần tốt nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị đẩy lùi. Hồ Chí
Minh yêu cầu công tác chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành một cách thường xuyên,
liên tục, bất luận trong điều kiện hoàn cảnh nào. Để chỉnh đốn đạt hiệu quả thì
phải chuẩn bị chu đáo, xác định rõ mục đích yêu cầu và có phương châm chỉ đạo
đúng đắn. Cách làm là phải tiến hành trên trước, dưới sau, làm từ trong cấp uỷ
rồi đến đảng viên. Phải coi trọng ở tất cả các cấp nhưng hết sức coi trọng
chỉnh đốn Đảng ở chi bộ. Quá trình chỉnh đốn phải chỉnh đốn cả tư tưởng kết hợp
chặt chẽ với tổ chức, dựa vào quần chúng và tạo điều kiện cho quần chúng tham
gia có hiệu quả công tác chỉnh đốn Đảng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
chứng minh tư tưởng của Hồ Chí Minh “cách mạng trước hết phải có Đảng cách
mạng”, là hoàn toàn đúng đắn. Trước khi có Đảng ra đời, lịch sử nước ta kể từ
khi thực dân Pháp xâm lược đã ghi lại rất nhiều cuộc đấu tranh anh dũng của
nhân dân ta chống giặc cứu nước nhằm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đó đều đã thất bại do chưa có đường lối cứu
nước đúng đắn, chưa có một Đảng cách mạng đủ sức lãnh đạo cách mạng đi đến
thắng lợi. Ngày 3-2 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam ở trong tình
trạng “đen tối như không có đường ra”, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về
đường lối cứu nước suốt hơn hai phần ba thế kỷ từ khi thực dân Pháp xâm lược.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á. Cũng chính nhờ có sự lãnh đạo của Đảng mà sức mạnh của dân
tộc Việt Nam được khơi dậy và nhân lên mạnh mẽ, đặc biệt được thể hiện rõ nét
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Không
chỉ có sức mạnh bên trong được phát huy mà với đường lối đối ngoại đúng đắn
Đảng đã kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
muôn vàn khó khăn thử thách, có những lúc “tưởng chừng như ngàn cân treo sợi
tóc”, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lần đầu
tiên trong lịch sử, một dân tộc nhỏ, đất không rộng, người không đông đã đánh
thắng hai đế quốc to, giành lại độc lập, thống nhất cho non sông, gấm vóc Việt Nam,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu, cơ đồ, vị thế của sự
nghiệp đổi mới mà chúng ta thu được hơn 35 năm qua càng chứng tỏ vai trò và địa
vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “cách mạng
trước hết phải có Đảng cách mạng” ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng đó
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với quá trình xây dựng và hoạt động
của Đảng ta. Quán triệt tư tưởng của Người chúng ta nhận thức sâu sắc về vai
trò của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Để Đảng thực sự “cách mạng”, ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ
trong thời kỳ phát triển mới của đất nước đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tự đổi
mới, tự chỉnh đốn nâng cao hơn nữa sức chiến đấu, năng lực và vai trò lãnh đạo
của mình. Đây là công việc đầu tiên, quan trọng nhất trong các chương trình
nghị sự của các kỳ Đại hội Đảng gần đây.
Đại hội lần thứ VII của Đảng chỉ
rõ: “Điều cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa đi
đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã
hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của mình”[7].
Đến Đại hội VIII, trong quá trình
đổi mới đất nước, Đảng ta nhấn mạnh phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng khẳng định: “Ngăn chặn khuynh
hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao
trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã
hội”[8].
Đại hội IX của Đảng xác định: “Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước”[9].
Đại hội X của Đảng xác định: “Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển”[10].
Đại hội XI của Đảng xác định: “Tiếp
tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới đất nước”[11].
Đại hội XII của Đảng xác định:
“Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận mục đích, phương thức, nội
dung, điều kiện cầm quyền…”[12]
Đại hội XIII của Đảng xác định:
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”[13].
Trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa
đế quốc, các thế lực phản động và những kẻ thù của chủ nghĩa xã hội đang ra sức
chống phá ta về mọi mặt, trong đó chúng tập trung mũi nhọn tấn công vào vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đặc biệt gay gắt và quyết liệt là từ sau thất bại
của các Đảng Cộng sản ở Liên xô và Đông Âu. Chúng tấn công trước hết vào nền
tảng tư tưởng của Đảng, vào nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân
chủ, vào đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ... Dưới chiêu bài “dân chủ” chúng
đòi “đa nguyên về chính trị”, “đa đảng đối lập”, nêu yêu sách đòi xoá bỏ điều 4
trong Hiến pháp...Trước tình hình đó đòi hỏi chúng ta càng phải nắm vững lý
luận và thực tiễn, nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng “trước
hết phải có Đảng cách mạng” để đấu tranh có hiệu quả với những nhận thức và
hành động sai trái làm ảnh hưởng xấu đến vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng, nhận
thức không đầy đủ về công tác đổi mới chỉnh đốn Đảng hiện nay, đề cao cảnh giác
kiên quyết đập tan những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay
đang đi vào chiều sâu. Nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đang đặt ra
những yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh những thời cơ thuận
lợi chúng ta còn có cả những thách thức khó khăn. Việc phát triển cơ chế thị
trường, thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan
nhưng cùng với nó là những tác động tiêu cực, có ảnh hưởng không nhỏ đến đội
ngũ cán bộ đảng viên, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Trước thực trạng đó, để cho Đảng tự
giữ vững vị trí “trước hết” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, trở nên “mạnh mẽ hơn bao
giờ hết” thì việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn phải là công việc đầu tiên,
quan trọng nhất, coi đây là nhiệm vụ then chốt như chủ trương của Đảng đã xác
định. Trong tình hình hiện nay để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng
cần tập trung: Nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng trong sạch, gắn bó chặt chẽ với quần
chúng, chống quan liêu, xa rời quần chúng.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên, tích cực, tự giác rèn luyện bản lĩnh chính trị, đây là một yêu cầu trong
công tác xây dựng Đảng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó. Kiên
định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam; trên cơ sở đó xây dựng
đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn. Giữ vững nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hiện tạp thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê
bình, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng
lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên theo quan điểm giai cấp của giai cấp công nhân. Củng cố mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại. Trong tình hiện nay cần đẩy mạnh tự phê bình trong Đảng, kiên quyết
chống quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng. Nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
sạch, vững mạnh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần khắc phục
tình trạng lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của
Nhà nước, Đảng bao biện làm thay Nhà nước hay buông lỏng sự lãnh đạo.
Sự nghiệp đổi mới đã và đang tạo ra
những thuận lợi và thách thức đan xen, vì thế phải quán triệt, thấm nhuần và
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “cách mạng trước hết phải có Đảng
cách mạng”; giữ vững, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng
vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thử thách để đạt
được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và hiện
thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
[1]
C. Mác và Ph. Ănggen, Toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 18, tr. 203.
[2]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.289.
[3]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.274.
[4]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.523.
[5]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr.14.
[6] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.289.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1991, tr. 53.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 75.
[9] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 144.
[10] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội, 2006, tr. 143.
[11] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội, 2011, tr. 148.
[12]
Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 217.
[13]
Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tập II,
tr.325.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét