Tư tưởng Hồ
Chí Minh về ĐĐCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
tư tưởng, tình cảm cách mạng, nổi bật là: trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư. Trong đó, phẩm chất bao trùm của ĐĐCM là trung
thành tuyệt đối với Đảng, tận tụy hết lòng vì dân. Người chỉ rõ ĐĐCM “là ra sức
phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung thành phục vụ giai cấp
và nông dân lao động, tuyệt đối không thể lừng chừng”[1].
Tiếp đến “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những phẩm chất quan trọng,
là những yêu cầu đầu tiên và dấu hiệu đặc trưng của người cách mạng. Người đã
giải thích ngắn gọn cụ thể, dễ hiểu: “cần” là siêng năng, là tăng năng suất
công tác; “kiệm” là không lãng phí thì giờ, của cải; “liêm” là không tham ô,
tôn trọng, giữ gìn của công; “chính” là việc phải thì hết sức làm, việc trái
thì dù nhỏ cũng phải tránh.
Có thể khái
quát, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐCM trên những vấn đề sau:
Trước hết, về
ý thức đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, giá trị chuẩn mực chung nhất của mọi tư tưởng
ĐĐCM là yêu cầu “đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước
lợi ích cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”[2].
Đạo đức là cái “gốc”, là “nền tảng”, là cái “căn bản” của người cách mạng,
“không có ĐĐCM thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[3].
Đó còn là thước đo lòng cao thượng của con người, mỗi người có công việc, tài
năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được
ĐĐCM đều là cao thượng. Có ĐĐCM thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng
không lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn.
Thứ hai, về ý
chí đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mục đích của ĐĐCM “không phải vì
danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và loài người”[4].
Thông qua quá trình tích lũy tri thức, quá trình tu dưỡng phấn đấu vươn lên
trong học tập, công tác, lao động sản xuất, trong cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày, không ngừng hình thành và nâng cao phẩm chất đạo đức trong sáng. Giải quyết
hài hòa các mối quan hệ trong xã hội, luôn đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và
nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Biểu hiện của ý chí vượt lên trên chủ nghĩa
vị kỷ, cá nhân là phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người khẳng định: “một dân
tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[5].
Do đó, theo Người: “người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng
chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra”[6].
Như vậy, nâng cao ĐĐCM không chỉ bằng nhận thức và ý chí, mà còn là thông qua
tình cảm, hình thành những nhu cầu tự thân, những động lực thôi thúc từ bên
trong mỗi người.
Thứ ba, về
hành vi đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “quyết tâm không phải ở hội trường, ở
lời nói, mà phải quyết tâm trong công tác, trong hành động”[7].
Nếu nói nhiều mà làm ít hoặc nói mà không làm, thậm chí nói một đàng làm một nẻo
thì không những kém hiệu quả mà còn phản tác dụng. Mặt khác, nói đi đôi với làm
phải gắn liền với nêu gương, bởi vì nêu gương có sức cảm hóa to lớn đối với người
khác và tập thể. Hồ Chí Minh khẳng định: “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ
viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những
người có đủ tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước”[8].
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã nêu một tấm gương tiêu biểu về
ĐĐCM cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân noi theo.
Ngoài ra, Người
chỉ rõ muốn xây dựng đạo đức mới, nâng cao ĐĐCM cho toàn dân, không thể không đấu
tranh loại bỏ những hiện tượng tiêu cực, thoái hoá, biến chất, nghĩa là “xây”
phải gắn liền với “chống”. Hồ Chí Minh nói: “mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”[9].
Theo Người, “xây” là giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới, nêu gương
điển hình trong cuộc sống và xây dựng ý thức lành mạnh để mỗi người tự giác thực
hiện trách nhiệm đạo đức. “Chống” là đấu tranh, khắc phục loại bỏ cái xấu, cái
sai, cái cản trở ĐĐCM phát triển. Để “chống” có hiệu quả Người đòi hỏi cao việc
thực hiện tự phê bình và phê bình.
Thứ tư, về
quan hệ đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, ĐĐCM được coi là đức tính tốt mà mỗi người
cách mạng cần phải có và bao gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Cũng
theo cách Người giải thích về nội dung từng điều có thể thấy quan hệ ĐĐCM nghĩa
là: đối với con người phải Nhân, đối với Đảng phải Nghĩa, đối với bản thân phải
Trí, đối với công việc phải Dũng, đối với địa vị phải Liêm.
Trong quan hệ
với con người, tình thương yêu con người là cơ sở quan trọng nhất tạo nên cái đẹp
của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, điều quan trọng nhất trong quan hệ
ĐĐCM là tình thương yêu con người, phải “thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ
đồng chí và đồng bào”, “kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến
Đảng, đến nhân dân”, “sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc
sau thiên hạ”, cho nên “không ham giầu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền”
và với những người như vậy “thì việc gì là việc phải họ đều làm được”[10].
Trong mối
quan hệ với Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định, người CBĐV cần phải “ngay thẳng,
không có tâm tư, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng”[11].
ĐĐCM có nghĩa là “toàn tâm, toàn ý” vì sự nghiệp cách mạng, vì sự nghiệp của Đảng.
Đây là mối quan hệ lớn nhất, giải quyết tốt mối quan hệ này là điều kiện, cơ sở
quan trọng thực hiện mối quan hệ khác. Tận trung với Đảng là tuyệt đối trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, sự nghiệp
xây dựng đất nước của dân tộc, với con đường đi lên CNXH. Trung thành với Đảng
đó cũng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phục vụ nhân dân và Tổ quốc.
Trong mối
quan hệ với bản thân, Hồ Chí Minh đòi hỏi ở mỗi CBĐV “đầu óc trong sạch, sáng
suốt”. Để có được sự trong sạch, sáng suốt ấy thì phải “không có việc tư túi nó
làm mù quáng”. Đây cũng chính là sự cụ thể hóa tư tưởng lớn của Người về “đức”
và “tài” của CBĐV. Đức và tài có mối quan gắn liền với nhau, trong đó, “đức” là
yếu tố quyết định, trước hết phải có “đức” mới có đủ “tài” để làm việc. Người
cũng nhấn mạnh, có “trí” thì sẽ “biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng,
biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian”[12].
Cũng như “nhân” và “nghĩa”, “trí” không thể tách rời, không thể đứng một mình,
tách khỏi mối quan hệ với các thành tố khác của ĐĐCM.
Trong quan hệ
với công việc và địa vị, Hồ Chí Minh kêu gọi mỗi CBĐV phải “dũng cảm, gan góc,
gặp việc khó phải có gan làm”. Có nghĩa là, phải dũng cảm không chỉ khi đối mặt
với khó khăn, với sự vinh hoa, phú quý không chính đáng, mà còn với những khuyết
điểm của chính mình. Người khẳng định: phải liêm khiết, quang minh, chính đại,
không bao giờ hủ hóa. Người giải thích “liêm” nghĩa là “không tham địa vị”;
“không tham tiền tài”, “không tham sung sướng”; “không ham người tâng bốc
mình”. Nhưng cùng với sự liêm khiết, người CBĐV phải “có một thứ ham” là “ham học,
ham làm, ham tiến bộ”.
Thứ năm, về
nâng cao ĐĐCM thường xuyên, liên tục.
ĐĐCM không phải
tự nhiên mà có, nó luôn là kết quả của sự tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ, thường
xuyên của mỗi người và toàn xã hội. Người đòi hỏi phải luôn trau dồi ĐĐCM vì
“ĐĐCM không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”[13].
Điều đó có nghĩa là ĐĐCM không có sẵn, không tự nhiên mà có, nó là đạo đức mới
của một giai đoạn phát triển mới. Tu dưỡng, nâng cao ĐĐCM là công việc suốt đời
không bao giờ được thỏa mãn, dừng lại, mà phải như công việc rửa mặt hàng ngày
của mỗi người.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh không chỉ là tấm gương tiêu biểu về ĐĐCM, Người còn là nhà lý luận,
nhà tư tưởng lớn về đạo đức. Mặc dù không để lại tác phẩm nào đồ sộ về đạo đức,
nhưng những tư tưởng lớn của Người về ĐĐCM đã được chuyển tải và chứa đựng
trong những bài viết, bài nói chuyện ngắn ngọn, diễn đạt một cách cô đọng, hàm
xúc, gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Những tư tưởng quý giá đó được Người
khái quát, đúc kết từ thực tiễn và từ đó trở về cải tạo hiện thực và con người
hướng tới cái chân - thiện - mỹ của cuộc sống. Vì vậy, nó có ý nghĩa to lớn
trong tiến trình cách mạng Việt Nam, trong rèn luyện, giáo dục và xây dựng con
người.
[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 605
[2] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 603
[3] Hồ
Chí Minh. Toàn
tập. Tập 5.
H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
[4] Hồ
Chí Minh. Toàn
tập. Tập 5.
H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
[5] Hồ Chí Minh. Toàn tập.
Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 611
[6] Hồ
Chí Minh. Toàn
tập. Tập 5.
H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
[7] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 482
[8] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 16.
[9] Hồ Chí Minh. Toàn tập.
Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 672
[10] Hồ
Chí Minh. Toàn
tập. Tập 5.
H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
[11] Hồ
Chí Minh. Toàn
tập. Tập 5.
H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
[12] Hồ
Chí Minh. Toàn
tập. Tập 5.
H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
[13] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 605,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét