Có những
sự kiện lịch sử khi thời gian trôi về quá khứ càng xa thì ý nghĩa, giá trị của
nó càng lớn lao. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc
(1975-1979) và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng của dân
tộc Việt Nam là một trong những sự kiện như vậy.
Việt Nam-Lào và Campuchia là ba nước nước láng giềng, trên
cùng bán đảo Đông Dương có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết cùng
chống kẻ thù chung. Đặc biệt, 3 dân tộc đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho
dân tộc.
Tuy nhiên, từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1970-1975) cho đến năm 1979, tập đoàn Pol Pot đã phản bội nhân dân
Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam-Campuchia.
Trong nước, Pol Pot thực hiện chính sách diệt chủng; đồng thời chúng thực hiện
cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam. Thực hiện quyền tự vệ
chính đáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối
hợp với lực lượng vũ trang (LLVT) Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia
mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ đô Phnom Penh (7-1-1979) và toàn bộ đất
nước Campuchia (17-1-1979).
Vừa qua, trong khi hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vui mừng,
phấn khởi kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam Việt Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng, thì
đây đó trên internet và mạng xã hội vẫn có những tiếng nói lạc lõng xuyên tạc
cuộc chiến tranh này. Họ tán phát luận điệu cũ rích: “Cuộc tấn công của quân
đội Việt Nam (giải phóng Campuchia) là cuộc chiến tranh xâm lược”; Việt Nam đã
“lấn chiếm Campuchia cả trên đất liền và biển, đảo”...
Vậy nguyên nhân cuộc chiến tranh này là gì?
Bản chất và ý nghĩa cao cả của cuộc phản công bảo vệ chủ
quyền quốc gia; giải phóng dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, diệt
vong là gì?
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh
Theo nhiều tài liệu và chứng cứ còn lại, trong 3 năm (từ
tháng 4-1975 đến cuối năm 1978), chính quyền Pol Pot đã thực hiện chính sách
chính trị, kinh tế, xã hội hoang dã: Hủy bỏ tất cả quyền con người, quyền công
dân-từ quyền sống đến các quyền tự do tối thiểu. Để làm “trong sạch dân cư”,
chúng đã thực hiện chính sách giết hàng triệu người một cách dã man (đập chết
bằng cuốc, xẻng, mổ bụng, moi gan... ). Gần 3 triệu người Campuchia đã bị
giết chỉ trong gần 3 năm. Chúng xóa bỏ mọi cơ sở xã hội của một nền văn minh
(như xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ
quan hệ hàng hóa-tiền tệ) đẩy cả dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt vong, đồng
thời xóa sổ cả nền văn hóa, văn minh của một dân tộc có bề dày hàng nghìn năm.
Đối với Việt Nam, Pol Pot ra sức vu khống: “Việt
Nam xâm lược, cướp đất, cướp đảo… của Campuchia”. Chúng kích động tư tưởng dân
tộc hẹp hòi, giết nhiều kiều bào Việt Nam; đòi hoạch định lại biên giới Việt
Nam-Campuchia. Pol Pot tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù truyền
kiếp”, “kẻ thù số 1”, là “tai họa lớn nhất” của dân tộc Campuchia… Ngay sau khi
Việt Nam hoàn toàn giải phóng, chúng tấn công đảo Phú Quốc (ngày 3-5-1975); tấn
công đảo Thổ Chu (ngày 10-5-1975). Tại đây, chúng bắt và giết hơn 500 dân
thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích, tập kích vào bộ đội biên phòng, tự
tiện di dời cột mốc biên giới ở các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum, Đắc Lắc…
Cuộc chiến tranh này đã được chính quyền Pol
Pot chuẩn bị bài bản với tham vọng có thể giành được chiến thắng. Chúng
phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân
chính quy với đầy đủ thành phần, binh chủng. Cuối tháng 4-1977, Pol
Pot điều động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới
Việt Nam-thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên
giới Tây Nam của Việt Nam.
Cuộc phản công tự vệ của quân và dân ta
Không
thể phủ nhận rằng, trong thời kỳ đầu của các cuộc tập kích, khiêu khích ở biên
giới Tây Nam, chúng ta đã mất cảnh giác vì tin vào chính quyền Campuchia
do Pol Pot-Ieng Sari cầm đầu. Việt Nam không nghĩ rằng một quốc gia láng
giềng từng được quân dân Việt Nam giúp đỡ, hy sinh cả xương máu để họ có được
độc lập dân tộc lại quay súng, giết hại nhân dân, giết hại đồng bào mình. Thế
nhưng, khi bọn chúng đã lộ mặt là kẻ phản bội-thật sự mở cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam thì quân dân Việt Nam bằng quyền tự vệ chính đáng của mình đã
giáng trả đích đáng.
Đặc biệt, ngay sau khi Mặt trận Đoàn
kết Dân tộc cứu nước Campuchia chính thức được thành lập (ngày 3-12-1978), đáp
ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày
23-12-1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc
cứu nước Campuchia mở cuộc tổng phản công-tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ
thống phòng thủ của quân Pol Pot. Ngày 7-1-1979, Quân tình nguyện
Việt Nam và LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia đã giải phóng
Phnom Penh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của tập đoàn phản động Pol
Pot và chế độ diệt chủng ở Campuchia.
Ngày nay, nhìn lại cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
Tây Nam của Tổ quốc, chúng ta rút ra nhiều ý nghĩa cao cả:
Trước hết, bảo
vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ luôn là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của quân dân ta. Trong bất cứ tình huống nào, quan hệ quốc tế
nào, chúng ta cũng không được thiếu cảnh giác trong sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, giải thích sự kiện quân dân ta không giáng trả ngay bè lũ Pol
Pot, nhiều đồng bào, cựu chiến binh ta nói rằng: Khi đó chúng ta nghĩ rằng
không có chuyện quân đội Campuchia lại tấn công Việt Nam.
Mặc dù tình hình quốc tế và khu vực đã có những chuyển biến
khác với thời kỳ "Chiến tranh lạnh" (1945-1991), tuy nhiên Việt Nam
và Biển Đông là một trong những vị trí địa chính trị quan trọng trong khu vực.
Cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn ở khu vực này có thể dùng các phương thức
khác nhau để giành giật quan hệ quốc tế… Điều này có thể dẫn đến những xung đột
giữa các nước nhỏ trong khu vực. Đây là một thực tế đã diễn ra trong lịch sử mà
Việt Nam không thể không quan tâm.
Thứ hai, các sự kiện diễn ra trong cuộc
chiến tranh này đã hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước về cuộc chiến tranh, nhất là luận điệu “Việt Nam xâm
lược, xâm lấn Campuchia”. Thực tế cho thấy, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây
Nam là một cuộc chiến tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Đồng
thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ sinh mạng-quyền con người của cả hai dân tộc
Campuchia và Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa-cuộc chiến tranh tự vệ
chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược, ngoài ra không có mục tiêu nào khác.
Về nguyên nhân quân đội Việt Nam không rút về nước ngay
trong năm 1979, Thủ tướng Hun Sen kể rằng: “Sau chiến thắng ngày 7-1-1979, nếu
như theo kế hoạch ban đầu, bộ đội Việt Nam sẽ rút quân khỏi Campuchia ngay
trong năm 1979. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Campuchia chưa đủ sức chống lại
Pol Pot và cần thời gian để củng cố lực lượng cũng như khôi phục nền kinh tế
của mình. Nếu Việt Nam rút quân và Pol Pot quay trở lại được thì sẽ càng nhiều
người Campuchia bị giết”, “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại.
Phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế...”.
Thứ ba, về quan hệ Việt Nam-Campuchia,
cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền của quân dân ta đã đồng thời giáng đòn quyết
định đánh sập chế độ diệt chủng ở Campuchia, ngoài ra không có mục tiêu nào
khác. Chiến thắng của quân dân ta cũng có thể nói là chiến thắng của tình đoàn
kết hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia, khôi phục lại tình đoàn kết hữu
nghị vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Thủ tướng Hun Sen từng kể
rằng: Trước tình hình đó (nạn diệt chủng), ông đã quyết định chạy sang
Việt Nam đề nghị giúp đỡ tổ chức phong trào kháng chiến giải phóng đất nước.
Khi ấy, ông được biết thông tin một số người dân Campuchia cũng đã rời quê
hương sang Việt Nam lánh nạn. Ông tin Việt Nam, vì đây là nước láng giềng đã
từng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh với Campuchia trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung giành độc lập. Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, ông nói:
“Nếu không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay”.
Thủ tướng Hun Sen còn khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng
trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải
phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả
lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm
tin, chỉ có tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn
khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay
khẩn cầu tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội
Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”.
Chế độ diệt chủng Pol Pot không chỉ là một thảm họa với
dân tộc Campuchia mà còn là một nguy cơ lớn đối với dân tộc Việt Nam. Bởi vậy,
giúp nhân dân Campuchia giải phóng "cũng là mình tự giúp
mình”. Với mọi kẻ thù xâm lược, cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là một thông điệp đanh thép của nhân dân
Việt Nam. Bất cứ kẻ thù nào, nếu có dã tâm xâm lược Việt Nam, chúng sẽ bị giáng
trả với toàn bộ sức mạnh tinh thần, trí tuệ và vật chất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét