Việt Nam đã giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân
tộc và đạt thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ở mọi giai đoạn lịch sử Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn đưa ra hững luận
điệu chống phá và cho rằng “Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là sai lầm”. Chúng còn khẳng định “chủ nghĩa xã
hội đã ở vào giờ thứ 25 trên toàn cầu”, “Việt Nam nên xoay trục để phát triển”,
v.v.. Đây thực sự là
một luận điệu sai trái mà của chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống Đảng, Nhà
nước ta là. Song, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ luận điệu sai trái này và khẳng
định sự lựa chọn con đường phát triển đất nước của Đảng, nhân dân ta là hoàn
toàn đúng. Đặc biệt theo TS Nguyễn Chí Thảo, học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh đã đưa ra những luận cứ nhằm đặp tan luận điệu xuyên tạc trên của các thế
lực thù địch.
Thứ nhất, Trong suốt chiều dài lịch sử thế giới, xét trên phương
diện chính trị, vấn đề độc lập dân tộc của mỗi quốc gia là một
trong những nội hàm cơ bản, cốt lõi trong quyền tự quyết cũng như
chủ quyền và lợi ích của quốc gia. Nó luôn gắn liền với quá trình
phát sinh, phát triển của các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, Bắc
Mỹ và dần dần được chấp nhận trong quá trình hình thành nên quan hệ
quốc tế hiện đại.
Trong
giai đoạn đầu, cùng với dân chủ, vấn đề dân tộc được giai cấp tư sản
nêu cao làm một ngọn cờ tập hợp lực lượng chống chế độ chuyên chế
phong kiến. Cuộc cách mạng tư sản Mỹ là một cuộc cách mạng tiêu biểu
trong vấn đề độc lập dân tộc, khi người dân 13 bang kiên quyết đấu tranh
không chịu sự thống trị của đế quốc Anh lúc đó. Cuộc cách mạng này
thành công, với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776, nền
cộng hòa của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ chính thức được thành lập, trở
thành thuộc địa đầu tiên trong thời đại tư bản chủ nghĩa giành được
độc lập, tạo tiền lệ quốc tế quan trọng trong việc thực hiện quyền
tự quyết của các dân tộc, trước hết là các dân tộc thuộc địa trên
thế giới. Cuộc cách mạng này đồng thời khẳng định “vị thế độc lập và
bình đẳng”, xem đây như là những “quy luật của tự nhiên và Thượng đế”
mà các dân tộc trên thế giới được hưởng hoàn toàn; gợi mở một phương
thức giành độc lập và con đường phát triển sau khi giành độc lập đối với các
dân tộc trong các điều kiện lịch sử khác nhau. Về sau này, Liên hợp quốc đưa ra
ba sự lựa chọn cho các dân tộc: 1). Thành lập một quốc gia độc lập có chủ quyền
cho riêng mình; 2). Liên kết tự do với một quốc gia khác; 3). Sáp nhập vào một
quốc gia khác. Song thực tiễn cho thấy, sự thành công của cuộc cách mạng tư
sản Mỹ, cũng như ở nhiều quốc gia khác giành được độc lập, đã đặt nền
tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước đó. Điều đó khẳng định, nền
độc lập thực sự, có chủ quyền là cơ sở, điều kiện tiên quyết cho sự
phát triển tiếp theo của mỗi quốc gia - dân tộc.
Thứ hai, Loài
người luôn mong muốn thiết lập một xã hội không có tình trạng người bóc lột
người và các hình thức bất bình đẳng khác về xã hội. V.I. Lê-nin viết: “Đã lâu
rồi, đã hàng bao thế kỷ nay, thậm chí hàng ngàn năm nay, nhân loại mong ước thủ
tiêu “lập tức” mọi sự bóc lột”3. Nhưng mong muốn, ước vọng của tầng
lớp lao động trong các xã hội cũ chỉ là những điều xa vời, không thực tế, họ
không tìm ra được con đường, cách thức để thực sự giải phóng mình khỏi áp bức,
bất công. Cũng có không ít cuộc khởi nghĩa, đấu tranh, có cả cuộc cách mạng xã
hội nhằm xóa bỏ xã hội cũ, song hầu như đều thất bại, hoặc khi thành công lại
không vượt ra khỏi vết xe cũ, không từ bỏ được cái căn nguyên của chế độ người
bóc lột người, của bất bình đẳng, đó là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Lịch sử cho thấy, chế độ phong kiến phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ, rồi
chế độ tư bản chủ nghĩa phủ định chế độ phong kiến, đều là nấc thang trong
tiến trình phát triển của văn minh nhân loại, song đó lại là nấc thang bóc lột
đa dạng hơn, tinh vi hơn. Khát vọng về một xã hội công bằng, bình đẳng, không
còn người bóc lột người của người lao động càng cháy bỏng hơn.
Để
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã chỉ ra phương
pháp, cách thức tiến hành, đó là cuộc cách mạng vô sản do Đảng Cộng sản của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Chỉ có cuộc cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác –
Lê-nin mới đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số quần chúng lao động. Đây là
cuộc cách mạng cơ bản, toàn diện, sâu sắc nhất về quyền tự nhiên, vốn
có của con người trong đời sống xã hội, mà trong đó “sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”4.
Qua đó, đặt nền tảng và định hướng cho sự phát triển của con người,
tiến tới một thời kỳ lịch sử, như các nhà lý luận Mác - xít gọi là xã
hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Đối
với cách mạng Việt Nam, cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, xây dựng một xã hội mới do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đúc rút từ thực tiễn
các cuộc cách mạng tư sản và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, mong
muốn xóa bỏ áp bức bóc lột, mang lại cuộc sống mới cho nhân dân, nên ngay từ
đầu đã xác định kiên quyết giành cho được nền độc lập dân tộc và phải đảm bảo
thực sự là một nền độc lập hoàn toàn, tất nhiên không biệt lập,
không lệ thuộc và không chịu bất kỳ áp bức, bóc lột từ nước nào.
Hơn nữa, đảm bảo cho nền độc lập đó là một nền độc lập vì con
người, hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội mới, làm cho mỗi người dân
thực sự được hưởng “quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh
phúc”. Để đạt được mục tiêu lý tưởng đã xác định, chỉ có con đường duy nhất là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Và chỉ có kiên định mục tiêu lý tưởng này
thì nền độc lập dân tộc mà nhân dân ta giành được mới thực sự là nền độc lập
hoàn toàn, khắc phục được những hạn chế của cách mạng tư sản.
Mặt
khác, cách mạng Việt Nam đi theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
còn là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Bởi, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc theo các khuynh hướng
phong kiến hay tư sản, tiểu tư sản (dù là cải lương hay cách mạng) đều không
thành công. Từ phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa Yên Thế, phong trào cách
mạng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học
- những phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến hoặc theo hệ tư tưởng tư sản,
đều đã được lịch sử kiểm nghiệm, song vẫn không phải là con đường đúng đắn,
hiệu quả để cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc, mà vẫn bế tắc. Thực tiễn đó
khẳng định, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, phải tìm một con đường khác, vừa
phải giành được độc lập, vừa phải đảm bảo quyền lợi của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động. Vì vậy, chỉ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, đưa cách mạng
Việt Nam theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì cách
mạng Việt Nam mới được sự đồng tình, ủng hộ, đi theo của đông đảo quần chúng
nhân dân. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng, một tất yếu khách quan, là sự vận
động hợp quy luật của lịch sử mà không ai có thể phủ nhận.
Đi
theo, kiên định con đường ấy, nhân dân ta đã đạt được những thắng lợi và thành
tựu to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua hơn 30 năm kháng chiến chống các thế lực thực dân, đế quốc xâm
lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam
kiên cường đấu tranh cho mục tiêu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - độc
lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân, làm nên Cách mạng Tháng Tám, Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và Đại thắng
Mùa Xuân năm 1975, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Có được những thành quả
ấy, chính là nhờ Đảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, qua đó tập hợp, hội tụ và kết tinh sức mạnh của cả dân tộc, tạo nên động
lực cách mạng vô cùng to lớn. Đó là sự thật, lịch sử đã ghi nhận, nhân dân thế
giới đã biết, không ai có thể chối cãi được.
Trong
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
càng được khẳng định rõ, với quan điểm nhất quán là đặt con người ở vị trí
trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội; trong đó, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người được xem là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo
đảm thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành
tựu đạt được và sự thụ hưởng của người dân trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam xuất phát từ nhận thức,
quan điểm tiếp cận đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”, đảm bảo sự “tự do và bình đẳng về quyền lợi” cũng như quyết
tâm hiện thực hóa các chủ trương, chính sách đã được ban hành. Các
quyền dân chủ trực tiếp và gián tiếp ngày càng được chú trọng, bổ
sung, cụ thể hóa để bảo đảm hiệu quả và hoàn thiện hơn; sự phối
hợp giữa các thiết chế dân chủ đã được xây dựng. Trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, các đối tượng tham gia, thụ hưởng theo
hướng mở rộng và thiết thực hơn. Đặc biệt, với quan điểm thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng bước phát
triển, Việt Nam chủ trương “quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ
phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng
cao, vùng sâu,... bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người”5.
Nhiều thành tựu trong phát triển con người của Việt Nam được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam
đạt kết quả tích cực, xếp thứ 116 trong số 189 nước, thuộc thứ hạng cao
của nhóm các nước trung bình. Việt Nam về đích trước nhiều Mục tiêu Thiên
niên kỷ (MDG) và hiện đang tích cực chuyển đổi thực hiện Mục tiêu
Phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc. Như vậy, thành tựu trong
việc đem lại quyền lợi thiết thân, ngày càng được cải thiện của mỗi
người dân đạt được ở Việt Nam thời gian qua là rất to lớn và cơ bản. Đó là
minh chứng hùng hồn cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và địa vị làm chủ chân chính
cho nhân dân, nâng tầm cao uy tín, vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc
tế. Đó là hiện thực sinh động để bác bỏ luận điệu xuyên tạc, cho rằng “kiên
định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sai lầm”.
Sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc còn nhiều khó khăn, thách thức. Song, thành
tựu đạt được trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội không chỉ minh chứng cho một hướng đi đúng, phù hợp với
thực tiễn của đất nước, mà hơn nữa đã góp phần định hình nên một
hình mẫu Việt Nam đi lên sau chiến tranh và hội nhập quốc tế. Vì vậy,
chúng ta hoàn toàn tự tin, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng, kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, phát huy thuận lợi, tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức,
khắc phục nguy cơ, thực hiện thắng lợi mục tiêu theo con đường đã chọn.
Như vậy, chúng ta có thể thấy những
luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng “Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là sai lầm” thực chất là những luận điệu phản khoa học, mục
đích của họ không có gì khác là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở nước ta. Song, dù có cố tình xuyên tạc thế nào,
thực tiễn cũng đã và đang khẳng định sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng, hợp quy luật phát triển của nhân loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét