Với trí tuệ
thiên tài, với sức mạnh của tư duy biện chứng duy vật, C.Mác đã phát hiện ra
tính hai mặt của lao động, của sở hữu tư nhân và từ đó, khẳng định chính lao động
bị tha hoá là nguồn gốc cơ bản trực tiếp và sở hữu tư nhân là nguồn gốc suy đến
cùng đã dẫn đến mọi nỗi khổ đau của nhân loại, của mỗi con người và làm cho con
người bị tha hoá.
Nếu như
G.Ph.Hêghen chỉ nhìn thấy mặt khẳng định của lao động với tư cách nhân tố sản
sinh ra con người, thì C.Mác khẳng định lao động không chỉ là mặt khẳng định -
nhân tố tạo ra con người, giúp con người không ngừng hoàn thiện và phát triển,
khi nó là lao động tự nguyện, mà còn chỉ ra trong chế độ tư hữu, khi lao động
là lao động cưỡng bức, lao động đã bị tha hoá, thì nó là mặt phủ định, là nhân
tố hành hạ, huỷ hoại con người. Từ đó, C.Mác đã đi tới kết luận: Sở hữu tư
nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với tư cách kết quả của quá trình
lao động bị tha hoá đã trở thành nguyên nhân suy đến cùng, nguyên nhân chủ yếu
và cơ bản nhất gây ra những tai hoạ khủng khiếp cho con người, làm tha hoá con
người. Do vậy, để giải phóng con người, cần phải xoá bỏ thứ sở hữu tư nhân đó.
Với giai cấp
công nhân, giai cấp chiếm đa số trong xã hội tư bản, thì chính sở hữu tư nhân
và lao động bị tha hoá đã biến lao động của họ thành hoạt động xa lạ, do chủ tư
bản quyết định, và do vậy, nó không chỉ làm cho họ bị què quặt, kiệt quệ về thể
xác và tinh thần, hạ thấp vai trò của lao động từ một phương diện để thể hiện
và phát triển những lực lượng bản chất của con người xuống ngang bằng hoạt động
của các loài động vật, chỉ còn biết dùng “lao động” để chỉ duy trì sự tồn tại của
mình, mà còn biến “cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người,
còn cái có tính người thì biến thành cái vốn có của súc vật”[1]. Trong xã hội tư bản, “công nhân càng sản
xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị
thì bản thân anh ta càng bị mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của
anh ta tạo ra dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật phẩm do anh ta tạo ra
càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man; lao động càng
hùng mạnh thì người công nhân càng ốm yếu; công việc anh ta làm càng phức tạp thì
bản thân anh ta càng trống rỗng về trí tuệ và càng bị nô lệ vào giới tự nhiên”[2]. Như vậy, nếu như phải mất hàng chục vạn
năm để những động vật cao cấp tiến hoá thành con người hiện đại, thì chính sở hữu
tư nhân và lao động bị tha hoá trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã “giúp” con người
trở lại, lùi về địa vị “con vật” với đúng nghĩa của từ này.
Với giai cấp tư
sản tình hình cũng không sáng sủa hơn. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản là
người chủ của xã hội, họ nắm toàn bộ quyền sinh, quyền sát trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, tưởng như họ được tự do tuyệt đối với niềm vui và hạnh phúc
tràn trề, nhưng không, họ cũng trở thành nô lệ cho chính những đồng tiền của
mình. Bởi vì, ông chủ thật sự của xã hội tư bản là tư bản, là tiền. Tiền là sức
mạnh, là thước đo giá trị của mỗi con người trong xã hội tư bản. Nỗi lo sợ mất
tiền, cùng với khát vọng có nhiều tiền, để có cơ hội chiến thắng trong cuộc chiến
khốc liệt diễn ra thường xuyên giữa chính những người tư sản và các tập đoàn tư
bản đã vô tình xô đẩy họ vào vòng xoáy bạo lực, bị chính những đồng tiền của
mình sai khiến tới mức mù quáng, mê muội. Ma lực của đồng tiền đã làm cho các
nhà tư bản hy sinh mọi niềm vui, hạnh phúc chân chính của con người. Vì tiền, họ
có thể bán cả lương tâm, danh dự, tình yêu, phẩm giá, hy sinh cả người ruột thịt,
chém giết, đoạ đày đồng loại, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình.
Cách cảm, cách
nghĩ của giai cấp tư sản, giai cấp thống trị nền sản xuất xã hội đã chi phối,
quyết định cách nhìn, cách nghĩ của mọi giai tầng khác trong xã hội. Theo
C.Mác, “chế độ tư hữu và lao động bị tha hoá là cái làm cho suy nghĩ của con
người trở nên “ngu xuẩn và phiến diện”, làm “thô lỗ hoá” mọi nhu cầu của con
người, biến mọi cảm giác vô cùng đa dạng, phong phú của con người thành “cảm
giác chiếm hữu”. Đâu đâu cũng là hoạt động bóc lột những lực lượng bản chất người;
bóc lột, tàn phá tự nhiên; làm tha hoá con người. Mỗi sản phẩm của người này
sáng tạo ra đều như những miếng mồi nhử nhằm đưa người khác vào cái bẫy sa đoạ,
đánh mất nhân tính của mình. Nền sản xuất của xã hội tư bản đã biến toàn bộ con
người thành con người hàng hoá, thành “một thực thể mất hết tính người cả về
tinh thần lẫn thể xác”. Đây chính là tai hoạ lớn nhất, khủng khiếp nhất mà chế
độ tư hữu và lao động bị tha hoá trong xã hội tư bản đã đưa đến cho con người.
Vì thế, C.Mác đã khẳng định, xoá bỏ chế độ tư hữu và lao động bị tha hoá là lời
kêu gọi khẩn thiết nhất nhằm cứu lấy con người, giải phóng con người.
Cũng với tư duy
biện chứng duy vật và trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ của các nhà triết
học, xã hội học tiền bối và đương thời, C.Mác đã khẳng định chủ nghĩa cộng sản
chính là sự phủ định một cách tất yếu, tự nhiên mà lịch sử xã hội loài
người dành cho chế độ tư hữu và cũng là một bước tiến lớn của lịch sử trong sự
nghiệp giải phóng con người, để trả lại những gì mà chế độ tư hữu đã cướp đi,
đã lấy đi của con người./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét