Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam; là sự nhận thức quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc trong thời kỳ lịch sử mới; phù hợp với quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một trong các mối quan hệ lớn, phản ánh quy luật phát triển, đổi mới của Việt Nam hiện nay. Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn 35 năm đổi mới Đảng ta khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước”1. Để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần “phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hoá, con người Việt Nam”2. Quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc được thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đảng.
Phát huy sức
mạnh tổng hợp trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không phải bây giờ mới có. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp
dựa vào phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần và sức mạnh vật chất - kỹ thuật;
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế;
sức mạnh tổng hợp dựa vào vai trò nòng cốt của công nhân, nông dân, trí thức với
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp dựa
trên phát huy vai trò của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, giữa kết hợp lực - thế - thời; sức mạnh tổng hợp
dựa vào phát huy tiềm năng, thế mạnh của mọi địa bàn chiến lược; giữa kết hợp sức
mạnh của nhà nước và sức mạnh của thị trường. Thông qua đó, sức mạnh của quốc
gia trở thành sức mạnh tổng hợp, được nhân lên nhiều lần mà từng yếu tố riêng lẻ
không thể có được. Sức mạnh tổng hợp tạo nên những biến đổi mới về chất của sức
mạnh quốc gia trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những biến đổi về chất đó được
tạo ra khi Đảng ta xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố vật chất và
tinh thần, bên trong và bên ngoài, giữa các giai tầng, các vùng, miền, các lực
lượng trong xã hội, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Thực chất, đó là sự
chuyển hóa giữa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, giữa sức mạnh bên
ngoài thành sức mạnh bên trong, giữa số lượng và chất lượng; tạo nên vị thế, thế
đứng mới của dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chính là
nhân tố quyết định, bảo đảm cho từng loại sức mạnh riêng lẻ được chuyển hoá
thành sức mạnh tổng hợp. Từ đó, những mục tiêu mà thực tiễn đặt ra cho cách mạng
Việt Nam trong không gian, thời gian, điều kiện cụ thể trở thành hiện thực. Nhờ
đó, qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”1. Trong
những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi
rất nhanh, phức tạp, đòi hỏi Đảng ta có định hướng, chủ trương, biện pháp phát
huy sức mạnh tổng hợp, tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn,
thách thức, đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng ta nhận định, trong những năm tới, trên thế giới,
hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều
trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến
triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra
gay gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng nhiều mặt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo
đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với
tình hình mới. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược
ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền
trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh
và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng
tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền
vững của thế giới, khu vực và đất nước ta.
Trong nước,
dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất nước ta
vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng. Tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa
cao. Kinh tế tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô còn nhỏ, năng lực nội tại
còn yếu. Hiệu quả hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Kinh tế
tư nhân trong nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh nhưng
chưa thật bền vững. Công tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an ninh con người, trật
tự, an toàn xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập,
gây bức xúc xã hội. Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt. Đấu
tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức. Giá trị
lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc và con người Việt Nam chưa được phát
huy đầy đủ. Năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế; chất lượng luật pháp, chính
sách trong một số lĩnh vực còn thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều
tổ chức đảng, đảng viên còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực
trong Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc
thể chế hoá, cụ thể hoá một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện
vẫn là khâu yếu.
Từ thực
tiễn hiện nay và dự báo tình hình sắp tới, Đại hội XIII tiếp tục
nhấn mạnh yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài: kiên quyết, kiên trì
bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước.
Phát huy sức
mạnh tổng hợp trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược, xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam, gắn kết chặt chẽ với thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của
Đảng, đất nước, dân tộc trong mỗi giai đoạn lịch sử. Phát huy sức mạnh tổng hợp
của đất nước phải trên cơ sở sức mạnh của từng lĩnh vực, đồng thời có cơ chế giải
quyết tốt mối quan hệ giữa các lĩnh vực đó, chuyển hoá thành sức mạnh tổng hợp.
Trong Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, trong định hướng phát
triển đất nước 5 năm 2021 - 2025, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm
2021 - 2030 Đảng ta xác định rất rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển
từng lĩnh vực cụ thể như: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, con người, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại… Với các mục tiêu, phương hướng cụ thể: Tập trung
hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng, phát triển nền kinh tế số, thúc đẩy tăng trưởng nhanh,
bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển mạnh mẽ khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế; phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo
đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và hội nhập quốc tế; phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách
hành chính…
Đồng thời, để
thực hiện thắng lợi các định hướng trên, giải quyết tốt các mối quan hệ để xây
dựng sức mạnh tổng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta xác định cần tiếp tục nắm và giải quyết các mối
quan hệ lớn: Quan hệ “giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm
kỷ cương xã hội”1.
Nghiên cứu,
quán triệt, vận dụng quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cần thấy đây là định hướng lớn, mang tính chiến lược, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt cách mạng Việt Nam. Để nghiên cứu, quán triệt, vận dụng có hiểu quả cần kết
hợp chặt chẽ nguyên tắc lôgic và lịch sử, kế thừa và phát triển, thấy sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Do
đó, quá trình nghiên cứu cần nắm chắc lịch sử của vấn đề qua quá trình lãnh đạo
cách mạng, cần có sự so sánh, đối chiếu. Hơn nữa, phát huy sức mạnh tổng hợp
trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung rộng lớn,
khi nghiên cứu cần có cách tiếp cận toàn diện, thấy được vị trí, vai trò của từng
yếu tố, từng lĩnh vực, song quan trọng nhất là thấy được mối quan hệ, sự chuyển
hoá của các yếu tố, các lĩnh vực cụ thể thành sức mạnh tổng hợp. Chỉ có như vậy,
chúng ta mới thấy sự sáng suốt, tài tình, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo phát
huy sức mạnh tổng hợp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc./.
NTP-H2
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, tr. 29.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, tr. 34.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, tr. 25.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, tr. 39.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét