Pages - Menu

Thứ Ba, 21 tháng 9, 2021

QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ

   Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được Liên hợp quốc và pháp luật của nhiều quốc gia phát triển như Pháp, Anh, Mỹ quy định cụ thể. Trong bản“Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm1789”, vấn đề tự do báo chí được trình bày như là một trong những quyền cơ bản: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật” (Điều 11).

  Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại khoản 1, Điều 19 quy định rõ: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” và khoản 2, Điều 22 quy định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác”.

  Ở Pháp, trong tiến trình cách mạng 1789, tự do báo chí đã được đề cập tại Ðiều 11, Tuyên bố dân quyền và nhân quyền. Sau này, đạo luật 1881 về tự do báo chí cũng được ban hành trong nền cộng hòa thứ ba vào ngày 29/7/1881 và đã nêu rõ các giới hạn trong tự do báo chí vì sự lạm dụng tự do, cụ thể là đưa ra các định nghĩa về tội phạm báo chí và đến nay đạo luật này vẫn còn giá trị.

  Ở Anh, tất cả các bài phát biểu miệng hay đăng báo với mục đích làm mất tín nhiệm hoặc kích động chống lại chủ quyền, chính phủ, hiến pháp, bất cứ viện nào hoặc hệ thống tòa án, kích động sự bất bình hay sự công phẫn giữa các công dân của Nữ hoàng, sự hận thù giữa các giai cấp của các công dân đó… đều bị coi là vi phạm pháp luật.

  Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của mọi công dân và cũng như các quốc gia khác, để giữ gìn kỷ cương và bảo đảm sự ổn định để phát triển, Nhà nước Việt Nam không cho phép lợi dụng những quyền này để tuyên truyền, kích động lật đổ chính quyền, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

  Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định “người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm thực hiện”. Các bản Hiến pháp sau này đều kế thừa và phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí.

  Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định này cũng được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam, như Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017; Luật Báo chí năm 2016...

  Ở Việt Nam, báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa “ý Đảng, lòng dân”, tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện để người dân kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

  Theo số liệu tại Hội nghị báo chí toàn quốc năm 2020, đến cuối năm 2020, cả nước ta có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động; 779 cơ quan báo chí, trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập; 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh, truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp tự do báo chí, tự do ngôn luận.

  Chúng ta khuyến khích tự do báo chí vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Và lẽ tất nhiên, chúng ta không thể chấp nhận việc lợi dụng tự do báo chí, tự do Internet, tự do ngôn luận để gây mất ổn định, chống lại Tổ quốc và dân tộc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, xâm phạm lợi ích của công dân.

  Vậy mà, các thế lực thù địch lại tung ra những luận điệu xuyên tạc rằng: “Việt Nam đã tước đoạt quyền tự do phát biểu, tự do thông tin của người dân”; “vi phạm trầm trọng quyền tự do báo chí”…   Đây là những luận điệu rất phản động, nhằm gây nhiễu thông tin, vu khống, xuyên tạc trắng trợn quyền tự do thông tin, báo chí của công dân Việt Nam.

  Bởi vì, ở Việt Nam chẳng có sự “tước đoạt” nào cả, mà chỉ có sự hướng về nhân dân, vì nhân dân với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt với tinh thần liêm chính, kiến tạo, phát triển của Chính phủ với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, để tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về quyền tự do phát biểu, tự do thông tin, ở nước ta không những không bị “tước đoạt”, mà quyền này được phát huy dân chủ rộng rãi, từ trong nguyên tắc hoạt động của các tổ chức, đến thực hiện quyền dân chủ của người dân “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhất là trong tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện trình các kỳ đại hội, đều được xin ý kiến đóng góp đầy đủ, rộng khắp của các tổ chức đảng các cấp, Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân. Trong kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng, đã có hàng triệu ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đóng góp vào các văn kiện trình Đại hội. Quá trình diễn ra Đại hội, các phiên khai mạc, bế mạc và nhiều phiên họp quan trọng của Đại hội Đảng lần thứ XIII được Đài truyền hình Việt Nam truyền hình trực tiếp để cho toàn thể nhân dân được theo dõi, tiếp thu và lĩnh hội những quan điểm, chủ trương của Đảng. Sau Đại hội, toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được quán triệt nhanh và học tập, triển khai Nghị quyết Đại hội. Điều đó cho thấy, không chỉ “ý Đảng, hợp lòng dân”, mà quyền tự do phát biểu, tự do thông tin ở Việt Nam được bảo đảm đầy đủ, chứ không phải như các thế lực thù địch rêu rao rằng “Việt Nam đã tước đoạt quyền tự do phát biểu, tự do thông tin của người dân”; “Việt Nam vi phạm trầm trọng quyền tự do báo chí”!

  Trước sự xuyên tạc trắng trợn của các thế lực thù địch, chúng ta càng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí và bảo đảm quyền thông tin của mọi công dân trước pháp luật. Tiếp tục nghiên cứu, nắm chắc luật báo chí, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mỗi công dân. Trên cơ sở đó, quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên lĩnh vực thông tin, báo chí, phát ngôn bảo đảm đúng pháp luật. Đồng thời, nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận diện và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí để xuyên tạc, vu khống trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền ở nước ta./.

P.T.H. H2

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét