“Cọp trắng Đông Bắc” gây sợ hãi cho quân Pháp cũng là người đã cầm quân làm nên Chiến thắng Đăk Tô, rồi đánh trận then chốt trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975 khiến Mỹ, ngụy kinh hoàng. Đó là Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Đàm Văn Ngụy.
“Cọp
trắng” Đường số 4
Trung
tướng Đàm Văn Ngụy kể với tôi rằng, ông sinh năm 1927 ở xã Xuất Tính (nay là xã
Minh Khai), huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng. Ông tham gia cách mạng khi mới 15 tuổi.
Ban đầu là liên lạc cho cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật ở huyện Thạch An. Đến
tháng 1-1945, ông gia nhập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Sau một số
trận trực tiếp chiến đấu, đến tháng 6-1945, ông được giao nhiệm vụ làm tiểu đội
phó, rồi tiểu đội trưởng.
Khi
Trung đoàn 174 (còn gọi là Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng) được thành lập, ông Đàm
Văn Ngụy được điều động làm cán bộ trung đội thuộc Tiểu đoàn 249 của trung
đoàn, dưới sự chỉ huy của “Hùm xám Đường số 4” Đặng Văn Việt. Vốn là người gắn
bó với rừng núi, ông đã đề xuất cấp trên, đưa ra chiến thuật đánh du kích trên
địa bàn xung yếu gây tổn thất nặng nề và làm thất bại âm mưu chiến lược “đánh
nhanh, thắng nhanh” của quân Pháp. Ông thường xuyên cải trang thành người dân địa
phương, trực tiếp trinh sát địa hình rồi vừa là người chỉ huy, vừa là người
xung phong đầu tiên trong những trận phục kích trên Đường số 4 trong suốt những
năm 1947-1950. Với cách đánh đặc biệt “như hổ vồ”, Trung đội trưởng Đàm Văn Ngụy
được quân viễn chinh Pháp đặt cho cái tên là “Cọp trắng Đông Bắc”. Sau hơn nửa
thế kỷ, một số người dân ở Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn còn nhớ về “hai con hổ” là
“Hùm xám Đường số 4” và “Cọp trắng Đông Bắc”. Quân Pháp đang hung hăng đi cướp
bóc, quấy phá dân, chỉ cần nghe có quân của “Cọp trắng Đông Bắc” hoặc “Hùm xám
Đường số 4” là vội vàng rút chạy về đồn. Trung tướng Đàm Văn Ngụy không nhớ hết
mình đã tham gia bao nhiêu trận đánh trên Đường số 4, ông chỉ nhớ tới những trận
tiêu biểu, trong đó có trận vào tháng 4-1947, đơn vị ông phục kích đánh đoàn xe
quân sự Pháp ở Bó Củng, tiêu diệt nhiều xe cơ giới và thiết giáp của giặc Pháp.
Trận phục kích vào tháng 8-1949, ông dẫn trung đội xung phong đánh vào giữa
đoàn xe quân sự Pháp ở Lũng Vài, chia cắt đội hình, gây rối loạn, tạo điều kiện
cho đơn vị tiến công diệt nhiều xe và lính Âu Phi.
Nỗi
sợ “Cọp trắng Đông Bắc” lan rộng tới cả vùng Tây Bắc, khi đơn vị của ông tham
gia tiễu phỉ ở biên giới Việt-Lào những năm 1953-1954. Với tài luồn rừng, bí mật,
bất ngờ, ông đã nhiều lần vào tận hang ổ của phỉ, thuyết phục chúng đầu hàng.
Đối
đầu với lữ đoàn “bất khả chiến bại” của Mỹ
Tháng
4-1967, Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy dẫn đầu Trung đoàn 174 vượt Trường Sơn
vào miền Nam, bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên. Tại đây, vào tháng 11-1967, ông
chỉ huy đơn vị đánh một trận “kinh thiên động địa” với lữ đoàn dù 173 của Mỹ
trên đồi 875 trong Chiến dịch Đăk Tô - Tân Cảnh. Khi Đảng ủy, Bộ tư lệnh Mặt trận
Tây Nguyên quyết định mở Chiến dịch Đăk Tô - Tân Cảnh, Trung đoàn 174 được giao
đánh trận quyết định của chiến dịch. Chiến dịch Đăk Tô - Tân Cảnh bắt đầu từ
ngày 3-11-1967, khi quân đội Mỹ đổ một tiểu đoàn xuống dãy Ngọc Bơ Biêng, nhưng
bị Quân Giải phóng đánh lui, buộc địch phải điều động lữ đoàn dù 173 lên Đăk Tô
để tăng cường sức chiến đấu. Nắm được ý định này, Trung đoàn 174 dưới sự chỉ
huy của Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy đã sử dụng lực lượng tại các chốt phục
kích, vây ép, kết hợp pháo kích, buộc lữ đoàn dù 173 của địch phải triển khai lực
lượng ở thế bất lợi; từ đó, nhanh chóng chuyển hóa thế trận từ phục kích sang vận
động tiến công địch vào khu vực điểm cao 875. Sau khi đánh địch đổ bộ đường
không, thực hiện ý định chiến thuật, Trung đoàn 174 bỏ điểm cao 882, chuyển Tiểu
đoàn 3 và một phần Tiểu đoàn 1 về điểm cao 875, hình thành thế trận phòng ngự
“chân kiềng” sẵn sàng đánh địch tại khu vực này.
Đúng
như Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy dự đoán, ngày 18-11-1967, một tiểu đoàn của
lữ đoàn dù 173 mò lên điểm cao 875 đã đụng độ với bộ phận chốt của Trung đoàn
174 và bị thương vong khoảng 90 tên, buộc phải lui về chỗ cũ.
Ngày
19 và 20-11, Mỹ tập trung bom, pháo bắn phá dữ dội vào điểm cao 875. Sau mỗi đợt
hỏa lực chuẩn bị, bộ binh Mỹ xông lên, nhưng đều bị Trung đoàn 174 đánh dạt xuống.
Đến chiều 20-11, tiểu đoàn 2 của lữ đoàn dù 173 dốc toàn bộ lực lượng mở một cuộc
tấn công lên. Nhưng lần này chúng bị hai tiểu đoàn của Trung đoàn 174 đánh tạt
sườn. Sau 3 giờ giao tranh quyết liệt, tiểu đoàn 2 của địch gần như bị xóa sổ.
Như con bạc khát nước, Mỹ tiếp tục đổ thêm quân xuống điểm cao 875. Chỉ chờ có
vậy, Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy lệnh cho các đơn vị dùng hỏa lực khống chế
các bãi đổ bộ, tiêu diệt địch trong quá trình đổ bộ đường không. Chiều 20-11, Mỹ,
ngụy đã mất đến 8 chiếc máy bay trực thăng chở quân và hàng trăm tên bị tiêu diệt.
Trong
cả ngày 21-11, Mỹ pháo kích dữ dội vào điểm cao 875. Chiều tối, Mỹ xua quân
đánh lên chốt và chiếm được một đoạn chiến hào. Hai bên đánh giáp lá cà quyết
liệt suốt nhiều giờ. Đến sáng sớm ngày 22, Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy ra lệnh
phản kích, dùng lựu đạn và tiểu liên đẩy lui lính Mỹ, giành lại đoạn chiến hào.
Vài
ngày sau khi chiến dịch kết thúc, đài BBC của Anh bình luận: “Lữ đoàn dù 173
Hoa Kỳ là đơn vị sừng sỏ chưa từng biết thua trận, lần đầu tiên đã tháo chạy
trước Việt Cộng”. Những binh lính của lữ đoàn dù 173 còn sống sót đã trả lời
báo chí: “Họ đánh tạt sườn và giỏi không chịu được”.
Đòn
quyết định trong Chiến dịch Tây Nguyên
Tháng
7-1973, Trung tá Đàm Văn Ngụy trở lại hậu phương miền Bắc, được bổ nhiệm giữ chức
Tư lệnh Sư đoàn 316. Vào thời điểm đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước
vào giai đoạn quyết định. Sư đoàn 316 được giao nhiệm vụ đặc biệt là huấn luyện
sát với địa hình miền Nam để sẵn sàng tạo ra những đòn quyết định, góp phần giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày
9-1-1975, Tư lệnh Đàm Văn Ngụy chỉ huy Sư đoàn 316 hành quân bằng xe cơ giới
vào chiến trường miền Nam. Ngày 3-2-1975, sư đoàn tới Đăk Đam (Tây Nguyên) đáp ứng
yêu cầu của Bộ Quốc phòng giao lúc đó là: Đi nhanh, đến gọn, đủ, an toàn và bí
mật.
Sau
khi nghiên cứu chiến trường, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định sử dụng
Sư đoàn 316 làm lực lượng đột kích chủ yếu vào thị xã Buôn Ma Thuột, mà trọng
điểm là sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy. Ngày
5-3-1975, Sư đoàn 316 triển khai lực lượng tiến công Buôn Ma Thuột. Ngay đêm ấy,
từ hướng nam, Thượng tá Đàm Văn Ngụy cùng Trung đoàn 148 và các đơn vị tăng cường
vượt Đường số 14. Ngày 6-3, đơn vị vượt sông Xê Băng Hiêng, luồn rừng, vòng xuống
vùng ngoại vi phía nam thị xã, bí mật lách qua các đồn bảo an, dân vệ.
Đúng
1 giờ 30 phút ngày 10-3, đặc công ta bắt đầu nổ súng mở đầu cuộc tiến công đánh
chiếm sân bay Hòa Bình, kho Mai Hắc Đế - Buôn Ma Thuột. Ngay sau đó, hỏa lực của
ta trút đạn vào các mục tiêu trong thị xã. Đến 4 giờ 30 phút, ta đã làm chủ được
khu nam và tây nam sân bay. Đến hết ngày 10-3, cả 4 hướng đánh vào Buôn Ma Thuột
đều giành thắng lợi, ta đã chiếm được nhiều vị trí, còn khu sân bay Hòa Bình, sở
chỉ huy sư đoàn 23 ngụy, ta chưa tiến công được. 5 giờ 30 phút ngày 11-3, cuộc
tiến công mới của ta bắt đầu. Sư đoàn 316 tiếp tục tổ chức bao vây, đột phá vào
sở chỉ huy địch. Sau khi hỏa lực pháo binh bắn vào các mục tiêu đã định, 6 giờ
30 phút, bộ binh ta trên các mũi bắt đầu tiến công.
Trung
đoàn 174 hình thành 3 mũi. Một mũi do Tiểu đoàn 3 có xe tăng đi cùng phối hợp với
Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 24. Một mũi do Đại đội 11, Tiểu đoàn 3 được tách ra từ
đầu thực hiện. Một mũi do Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 174 có xe tăng chi viện đánh
từ hướng tây nam vào. Trung đoàn 148 hình thành hai mũi: Tiểu đoàn 7 đánh từ
phía nam lên, Tiểu đoàn 8 từ tiểu khu Đắc Lắc đánh thọc sang sở chỉ huy.
Các
mũi của ta đồng loạt tiến công và liên tiếp giành thắng lợi. Mũi Tiểu đoàn 7,
Trung đoàn 148 sau khi đánh chiếm một loạt vị trí, đã tiến công vào khu tham
mưu, diệt tại chỗ 269 tên địch, bắt 19 tên rồi tiến vào khu trung tâm sở chỉ
huy sư đoàn 23 ngụy lúc 10 giờ 30 phút. Thị xã Buôn Ma Thuột hoàn toàn giải
phóng. Nhiệm vụ đánh trận then chốt trong Chiến dịch Tây Nguyên của Sư đoàn 316
dưới sự chỉ huy của “Cọp trắng” Đàm Văn Ngụy đã hoàn thành./.
LQT-H8
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét