Ở Trung Quốc cổ đại, Tử Sản, khi còn làm quan
nước Trịnh (thời Xuân Thu) đã đặt ra quy định cho phép mọi người dân được phê
bình kẻ chấp chính, hay Chiêu Công Hổ - một quan đại thần nhà Tây Chu đã ví
việc tạo điều kiện cho người dân có thể nêu ý kiến về mọi việc trong đời sống
xã hội chẳng khác gì khơi thông dòng nước cho con sông chảy ra biển.
Đối với Việt Nam, vào năm 1919, quyền tự do
ngôn luận lần đầu tiên được nêu lên khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành chính
thức sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc để thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước
ký vào Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị các nước Đồng minh
thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất được tổ chức tại Véc-xây
(cách thủ đô Paris của nước Pháp 14 km) mà trong đó, quyền tự do ngôn luận được
đặt ở vị trí thứ 3 trong 8 điều của bản Yêu sách. Kể từ đó, nhân
dân Việt Nam
đã trải qua hơn 25 năm đấu tranh đầy cam go, gian khổ để hiện thực hóa thành
công cuộc cách mạng vô sản, giành lại nền độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam
vào năm 1945. Đặc biệt, năm 1946, quyền tự do ngôn luận được trịnh trọng ghi
nhận và bảo đảm thực hiện tại điều 10 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa. Cho tới hiện nay, quyền tự do ngôn luận tiếp tục được khẳng định
và bảo đảm thực hiện tại điều 25 Hiến pháp 2013.
Khái lược một số thông tin lịch sử để thấy
rằng, nhân loại, trong đó có nhân dân Việt Nam, khi thức tỉnh và đấu tranh cho
những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, đã phải
trải qua những cuộc đấu tranh khốc liệt, thậm chí hy sinh xương máu của bao thế
hệ. Vì lẽ đó, quyền tự do ngôn luận nhất quyết không phải là thứ mà những kẻ
nào đó đem tới đất nước này để rao giảng, dạy dỗ hay xuyên tạc, bịa đặt về việc
thực hiện nó trong cuộc sống. Nó cũng không phải là một quyền mà một bộ phận
với nhận thức nông cạn, nửa vời, thô thiển có thể sử dụng để dễ dãi lên tiếng
phê phán, chỉ trích, kích động, nói xấu vô căn cứ đối với các cá nhân, tổ chức.
Thậm chí, trong bối cảnh hiện nay, một bộ phận xã hội tự cho mình cái quyền tự
do ngôn luận lại “tung tăng buông lời trên mạng” một cách vô nguyên tắc.
Do vậy, để thực hiện tự do ngôn luận, trong đó
cụ thể ở đây là tự do ngôn luận trên mạng, đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải
tuân thủ và đáp ứng một số yêu cầu dưới đây:
Trước hết phải nắm vững, hiểu rõ những quy định của pháp luật có liên quan. Nhà triết học cổ điển Đức G.W.F. Hegel từng có luận điểm nổi tiếng: “Tự do là nhận thức được cái tất yếu”. C.Mác tán thành quan điểm này và còn làm rõ thêm: “Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do… Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một sự tồn tại vô ngã, có tính chất lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”. Công dân Việt Nam phải hiểu biết đầy đủ, chính xác pháp luật, biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Chỉ khi thực hiện quyền tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật sẽ mang đến cho họ quyền tự do, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác.
Để tự do ngôn luận trên mạng là tự
tương tác của cá nhân có thể diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, ít chịu sự giám sát,
phê duyệt mang tính tổ chức, chính vì vậy đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tự
chịu trách nhiệm đối với mỗi lời nói, câu viết của mình trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trên mạng xã hội, không phải thích nói và viết một cách
bừa bãi, cảm tính nhất thời. Thực hiện quyền tự do ngôn luận trên mạng phải
chính đáng, có tính mục đích tiến bộ rõ ràng, mang tính xây dựng, mang đến điều
tốt đẹp, tích cực cho bản thân, cộng đồng, xã hội và quốc gia.
Rồi để tự do ngôn luận trên mạng bày tỏ quan
điểm, chính kiến trên các báo mạng, diễn đàn, mạng xã hội... cá nhân công dân
bên cạnh việc tuân thủ những quy định của pháp luật chung, còn phải tuân thủ
Luật Báo chí, đưa tin lên mạng phải trung thực, đúng sự thật, không được bóp
méo, cắt gọt gây hiểu lầm hoặc khi đánh giá, phê bình phải có căn cứ rõ ràng.
Cuối cùng để thực hiện quyền tự do trên mạng
phải phù hợp với văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, lời nói hay
câu viết cần phải phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt. Khi bình phẩm,
nhận xét phải có lời lẽ ôn hòa, văn minh, lịch sự, không được sử dụng ngôn từ
cực đoan, gay gắt hay lai căng mang tính lăng mạ, sỉ nhục, kỳ thị người khác./.
TKT-TT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét