Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, sau này đã viết: “Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử”. Thế mà đáng tiếc, 47 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, vẫn còn có những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử. Họ chẳng những đi ngược tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai mà còn khoét sâu những vết thương bởi mù quáng và bạo tàn. Hành động của họ xét cho cùng cũng chính là sự phá hoại tương lai…
Xuyên tạc,
đánh tráo, xóa nhòa lịch sử
Cứ đến dịp kỷ
niệm 30-4 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những
quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng là của cộng đồng người Việt ở
nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như “tháng Tư là tháng “vo gạo bằng nước mắt”,
“mùa quốc hận-tháng tư đen”... Nhiều trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực
chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không
có gì đáng tự hào. Một số ít người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét
quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc “tử tế”.
Cù Huy Hà Vũ,
kẻ sinh ra trong một gia đình cách mạng, từng bị tòa án tuyên án khi bóp méo sự
thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, gây chia rẽ, thù hằn dân tộc. Gần
đây, khi sang Mỹ, Vũ phát ngôn cho rằng, hòa hợp dân tộc không dừng ở hòa hợp
giữa hai bên “thắng cuộc” và “thua cuộc” mà còn là hòa hợp giữa những nhà dân
chủ với chính quyền hiện nay. Chỉ khi nào “chế độ cộng sản sụp đổ, người Việt mới
có hòa hợp, hòa giải”. Nguyễn Lân Thắng, “kẻ đốt đền” trong một gia đình khoa học
thì lại muốn nổi tiếng bằng những lời xảo ngôn: “Mình mong ngày 30-4 sẽ chuyển
thành ngày tưởng niệm những mất mát của dân tộc, đừng nói chuyện ai thắng, ai
thua”. Lý Thái Hùng, kẻ tự xưng là “tổng bí thư” của tổ chức khủng bố Việt Tân
đã từng hô hào biến ngày 30-4 từ “quốc hận” trở thành “tinh thần quốc kháng” để
chống lại chế độ cộng sản.
Tháng 9-2018,
tại Washington (Mỹ), cái gọi là “tập hợp vì dân chủ cho Việt Nam” đã tổ chức hội
thảo có chủ đề “Nhìn lại chiến tranh Việt Nam” và đưa ra một số luận điểm bịa đặt,
biện hộ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa. Họ kêu gọi: “43 năm qua, Việt Nam vẫn
chưa có tự do, vẫn chưa có dân chủ. Thành ra sứ mệnh của người trẻ tại hải ngoại
sẽ phải tiếp tục đồng hành, tiếp tục tranh đấu cho tự do và dân chủ”.
Xung quanh bộ
phim tài liệu 10 tập The Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam) được Mỹ công chiếu,
một số người trong nhóm “Văn đoàn độc lập” đã xét lại lịch sử: “Có nhất thiết
phải qua chiến tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường
khác ít xương máu hơn cho nền độc lập của đất nước thì quý biết nhường nào?”. “Nếu
không cần chống Mỹ, miền Nam có giàu như Hàn Quốc không?”.
Không thể phủ
nhận sự thật và đảo ngược chân lý
Để xem xét lịch
sử thì cần phải có cái nhìn toàn diện, khách quan, tôn trọng sự thật. Cho dù cuộc
kháng chiến đã lùi xa 47 năm hay lâu dài hơn nữa thì lịch sử dân tộc và thế giới
đều ghi nhận và chúng ta phải luôn khẳng định, tự hào về thắng lợi của một cuộc
kháng chiến chính nghĩa, trường kỳ, vĩ đại vì nền hòa bình, độc lập, tự do của
Tổ quốc. Đúng như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội đầu
tiên sau ngày đất nước thống nhất đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng
lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được
ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người,
và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện
có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Nhà sử học
người Pháp, kiêm chuyên gia nghiên cứu về lịch sử Đông Dương Alain Rusco cho rằng,
sự kiện 30-4 “gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế về một dân tộc không chịu
khuất phục trước quân thù… để có được chiến thắng này hàng triệu người dân Việt
Nam đã ngã xuống trong nhiều thập kỷ đầy cam go, quyết liệt”.
Trả lời báo
chí về bộ phim tài liệu The Vietnam War, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam
Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam
mang tính chính nghĩa, phát huy được truyền thống sức mạnh đoàn kết của cả dân
tộc, được bạn bè và nhân dân thế giới hết sức ủng hộ. Chính vì thế đã đi đến thắng
lợi cuối cùng và thống nhất đất nước”.
Trong cuốn hồi
ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, cố đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
đúc kết một trong những đặc điểm nổi bật về cuộc kháng chiến là: “Cả nước đánh
Pháp, đánh Mỹ, không phân biệt tiền tuyến, hậu phương. Ý chí thống nhất Tổ quốc
là thế và lực mạnh trong chiến tranh. Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là
một. Chiến trường Việt Nam là một. Cả dân tộc kết thành một khối trong tình đồng
bào cùng chung giống nòi Hồng Lạc, không thể cắt chia. Thù nhà nợ nước là chung
của cả dân tộc…”. Những kẻ ngày nay xuyên tạc cho rằng bên này, bên kia mới là
thắng cuộc, bên này mới là giải phóng bên kia… chẳng những không hiểu cội nguồn
lịch sử mà còn xúc phạm xương máu cha ông.
Trên thực tế,
chính những người trong cuộc là Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn cũng đều đã thừa nhận
tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; chỉ một bộ phận chống
cộng, mang nặng hận thù và những kẻ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày nay mới
tin vào những luận điệu như chiến tranh ý thức hệ, nội chiến hay quan điểm lập
lờ “bên nào thắng thì nhân dân đều bại”(!).
Chính Robert
McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người được xem là “kiến trúc sư” của
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ đã rút ra 11 “sai lầm một cách tồi tệ”,
đáng chú ý nhất là đã lẫn lộn cuộc đấu tranh ý thức hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc của cả một dân tộc. Ông viết: “Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và
từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng
đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của
họ đối với nước Mỹ”.
Henry
Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ viết: “Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy
nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh
đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975…”.
Theo các tài
liệu mới được giải mật của chính quyền Mỹ, ngày 27-9-1948, trong một văn kiện của
Bộ Ngoại giao Mỹ xác định mục tiêu lâu dài của Mỹ là “thủ tiêu ở mức tối đa có
thể được ảnh hưởng của Cộng sản ở Đông Dương, Mỹ muốn thấy Việt Nam và Đông
Dương có một nhà nước dân tộc chủ nghĩa tự trị thân Mỹ”. Ngày 30-12-1949, Tổng
thống Mỹ S.Truman phê chuẩn một văn kiện của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ,
trong đó nêu rõ: “Mục tiêu lâu dài của Mỹ là thủ tiêu ở mức độ tối đa có thể được
ảnh hưởng của Cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương... Mỹ muốn thấy ở Việt Nam và
Đông Dương có các nhà nước chống cộng, thân Mỹ”. Điều này cũng được Đại tướng
Võ Nguyên Giáp nhắc lại nhân kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước: "Bác Hồ đã sớm nhìn thấy âm mưu đen tối của Mỹ. Từ 1950, Bác đã
chỉ ra sự dính líu và can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Ðông Dương. Ðể tranh thủ
hòa bình, Bác đã 11 lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ S.Truman...” nhưng không có
phản hồi.
Giáo sư Trần
Chung Ngọc, một người Mỹ gốc Việt, một cựu quân nhân trong quân đội ngụy Việt
Nam Cộng hòa từng có nhiều bài viết phân tích sâu sắc về cuộc chiến tranh. Ông
viết: “Mỹ không có lý do nào chính đáng để can thiệp vào Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc tế, không dựa trên pháp lý mà dựa
trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công lý” để can thiệp vào Việt Nam với ý
đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu vực”…
Quá khứ -
dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách
Một trong 9
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương
4, khóa XII chỉ ra là: “Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng
khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ
tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết
sức tỉnh táo để phát hiện, ngăn chặn.
Không chỉ cán
bộ, đảng viên mà mỗi người dân yêu nước Việt Nam cũng cần phải có tiếng nói
đúng với lương tâm và lẽ phải. Quá khứ không chỉ là lịch sử mà còn là hành
trang, là sức mạnh tinh thần, là dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách của mỗi
người dân đất Việt. Nếu quên tổ tiên, quên công lao của thế hệ đi trước, quên
những hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của dân tộc thì không thể là người Việt
Nam chân chính. Phẫn nộ với ý kiến cho rằng “không cần chiến tranh sau này đất
nước vẫn giàu mạnh”, nhà sử học người Mỹ gốc Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết:
“Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi
trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn
thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như
trên, thì những công lao và sự hy sinh của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong
các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi
giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu
anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến 1954-1975 để đòi lại miền Nam
trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận
điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc
Việt Nam được trường tồn”.
Sự dối trá,
hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại sai lầm, kích động mâu thuẫn…
không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền nhân, với người hy sinh vì hòa
bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại tương lai của dân tộc. Chúng ta
phải kiên quyết lên án, xóa bỏ những tư tưởng ấy để “mở nền thái bình muôn thuở”,
“dập tắt chiến tranh muôn đời”. /.
NTC-H4
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét