Những
bước phát triển của cuộc kháng chiến Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều
thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống tên đế
quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải
qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế
quốc Mỹ. Cụ thể là:
1.
Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Với những mưu đồ đã dự tính từ trước,
đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những
thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện
chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ -
Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng”, đàn áp, khủng bố
phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng
ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả
miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cuộc đấu tranh của
nhân dân diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một
lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng.
Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục 3 tiêu, phương pháp
cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp
thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân
dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 - 1960),
xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy
quyền ở các thôn, xã.
2.
Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến
công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ Từ cuối năm
1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay
sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa
10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra
khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới,
từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu
tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên
cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ và tay sai. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc
phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
3.
Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu
nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh
thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc Trước nguy
cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội
chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu
đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết
1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trên
chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những
trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi
Thành, Vạn Tường, Plei Me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành
quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên,
miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở
các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng
không quân và hải 4 quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm
giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của, ngày càng lớn cho miền Nam.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định
vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang
chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
4.
Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt
Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ
hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn
xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân,
chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả
hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào,
Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970
- 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp
giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm
1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là
đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục
diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn
khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp
định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực
lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng
lợi cuối cùng.
5.
Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Đến tháng 5/1973, xu thế chống
phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa
bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng. Tháng 7/1973, Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là
con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nữa cuối
năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy
ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng
ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến
lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải
phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ,
đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy
thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng
ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 04/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến
dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng
Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải
phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với
sức mạnh áp đảo về chính trị, quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng,
kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
NSĐ
- KBC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét