Gần đây, trên mạng xã hội xuất
hiện nhiều ý kiến cho rằng: Trung ương nên chủ trương “dân sự hóa hoạt động
quân sự” để hạn chế hao tốn nguồn lực đầu tư cho quốc phòng, lại huy động được
sức dân trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
Thực chất, đằng sau những lập luận
ấy là chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch, hòng phá vỡ tính tổ chức,
tính kỷ luật, hạ bệ vai trò của quân đội, làm cho Quân đội nhân dân (QĐND) Việt
Nam xa rời mục tiêu, lý tưởng, nhằm hiện thực âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”
Trên một số trang mạng nước
ngoài gần đây đăng tải nhiều bài viết tập trung “phân tích” về chủ trương, cách
thức vận hành trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam. Các bài viết
này “ngợi khen” việc nhất quán “mỗi người dân là một chiến sĩ” thể hiện cách
làm sáng tạo, hiệu quả.
Họ thuyết giảng: Vì dịch bệnh
cũng là một loại “giặc” nên đáng ra quân đội phải là lực lượng duy nhất có
trách nhiệm đương đầu, ứng phó. Thế nhưng, Việt Nam đã biết cách biến mỗi người
dân thành một chiến sĩ nên công cuộc chống “giặc dịch” trở nên hiệu quả.
Trên luận điệu đó, họ cố tình
suy diễn: Quân đội không thể hiện được vai trò, vị trí của mình, nên cần phải
“dân sự hóa hoạt động quân sự”; trao sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) cho quần
chúng. Có nghĩa, phải tinh giản biên chế trong quân đội một cách mạnh mẽ, chỉ để
lại một vài cơ quan chỉ đạo chiến lược; cũng nên giảm ngân sách đầu tư cho quốc
phòng và không nên “nuôi” một số lượng quân thường trực “đông nhưng không mạnh”...
vì nếu có biến cố gì đi nữa, thì nhân dân ứng phó là đủ (?)
Với cách lập luận lập lờ nêu
trên khiến không ít người thoạt nghe đã sinh ra a dua, cổ xúy, tán dương. Một số
người dân đón nhận thông tin một chiều tỏ ra nghi hoặc về sức mạnh quân đội, rồi
bày tỏ sự ủng hộ “dân sự hóa” một số lĩnh vực hoạt động quân sự, dành ưu tiên
nguồn lực cho phát triển kinh tế...
Từ những phân tích trên, các bài
viết còn viện dẫn về chuyện một số quốc gia trên thế giới không cần xây dựng lực
lượng quân đội, chỉ thiết lập đội tự vệ quốc gia với quân số ít. Thậm chí, có
quốc gia không bận tâm đến việc BVTQ, vì trong xu thế hội nhập, các nước sẽ biết
cách tôn trọng độc lập, tự do, chủ quyền của mỗi quốc gia.
Thực chất, đây là những thủ đoạn
nhằm hạ thấp ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ BVTQ, hạ bệ vai trò của QĐND
Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng, BVTQ; thúc đẩy xu hướng nhận thức tiêu cực,
tạo áp lực tâm lý để xới lên đề xuất “giải tán” quân đội, cắt giảm nguồn lực đầu
tư cho quân đội và quốc phòng. Đây là thủ đoạn nhằm phá vỡ “lõi hạt nhân” trong
kết cấu thế trận chiến tranh nhân dân, làm tan hỏng, mục rũa nền quốc phòng
toàn dân từ bên trong.
Ở một diễn biến khác, những kẻ
thủ ác lại rêu rao: Việt Nam đang “quân sự hóa hoạt động dân sự”. Họ cho rằng:
Chống dịch là một dạng hoạt động dân sự, nhưng quân đội lại ồ ạt đưa lực lượng,
vũ khí, trang bị vào “trấn áp” dịch-đó là biểu hiện “quân sự hóa hoạt động dân
sự”.
Một mặt, họ quy kết quân đội
không đủ mạnh, không thể làm tròn nghĩa vụ với nhân dân, nên cố tình kéo quần
chúng vào một cuộc chiến “vô thưởng vô phạt”; cổ vũ người dân lên tuyến đầu để
bao biện cho sự hèn nhát, sợ dịch bệnh của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Mặt khác,
họ tung hô: Đảng, Nhà nước và quân đội đang tô hồng vai trò của chính mình,
“làm màu” để mị dân.
Thực chất, đây là thủ đoạn đánh
tráo sự thật, xóa nhòa bản chất hoạt động bảo vệ, phục vụ nhân dân, phủ định
vai trò, đóng góp to lớn của QĐND Việt Nam trong phòng, chống dịch Covid-19 suốt
gần hai năm qua. Trên thực tế, QĐND Việt Nam đã khẳng định vai trò đặc biệt
quan trọng, là một trong những lực lượng xung kích trên tuyến đầu; bảo vệ nhân
dân bằng tất cả tình yêu thương. Thậm chí nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy
sinh trong cuộc chiến với loại “giặc vô hình” để phụng sự Tổ quốc, bảo vệ nhân
dân.
Vậy nên, “những lời có cánh” nêu
trên, thoạt qua, có thể nhầm tưởng là hợp lý, vô hại, nhưng xét về thực chất lại
chính là khuynh hướng thủ đoạn khá mới, cố tình làm sai lệch nhận thức của quần
chúng, mang lại nhiều hệ lụy và hậu quả to lớn; ảnh hưởng đến quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của quân đội; tác động trực tiếp đến kết quả xây dựng quân
đội; chi phối nghiêm trọng công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực,
nguồn lực BVTQ trong tình hình mới.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho
thấy, QĐND Việt Nam luôn là lực lượng nòng cốt BVTQ, trong thế trận chiến tranh
nhân dân. Nghệ thuật quân sự Việt Nam ngay từ xa xưa đã thực hiện phép dụng
binh “ngụ binh ư nông”- quân gửi trong dân.
Với chức năng, nhiệm vụ của
mình, quân đội là lực lượng không thể thay thế, không thể phủ nhận, là công cụ
sắc bén, hữu hiệu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi
ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.
Trong khi đó, tính chất, yêu cầu
nhiệm vụ BVTQ trong điều kiện mới ngày càng cao; tình hình thế giới, khu vực diễn
biến phức tạp, mau lẹ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động đến nhiệm vụ BVTQ. Các vấn
đề xung đột, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới diễn ra phức tạp.
Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống
phá cách mạng Việt Nam, kích hoạt sự “chuyển màu” về chế độ, cố tình hạ bệ vai
trò của Đảng và QĐND Việt Nam... Trước tình hình đó, nếu Việt Nam không có một
đội quân thực sự “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” thì liệu
nhiệm vụ BVTQ có thể bảo đảm trong mọi tình huống, nhằm tạo môi trường hòa
bình, ổn định, làm nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước?
Thực tế cho thấy, kể từ sau ngày
đất nước hoàn toàn giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà, thì vẫn chưa có bất kỳ
phút giây những người lính Cụ Hồ được ngơi nghỉ trong cuộc chiến giữ hòa bình, ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, thời
kỳ phát triển, quân đội luôn là lực lượng đi đầu và khẳng định những đóng góp
to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, nhất là trong suốt hành trình 35 năm thực
hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Vậy nên, với chức năng, nhiệm vụ
được giao, QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng
để có đủ tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước, nhân dân giao phó.
Ở đây, cần hiểu đúng và đủ về chủ
trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội trong
mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân tự vệ. Trong đó, với tầm nhìn chiến lược, các lực lượng phải từng bước
được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trên hết và trước hết phải ưu
tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác của
LLVT.
Bởi thế, trong nhiều năm qua, Đảng,
Nhà nước, Quân ủy Trung ương luôn nhất quán quyết tâm xây dựng quân đội cách mạng,
nhưng đồng thời phải tiến lên chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nghị quyết Trung
ương các khóa XI, XII, XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X,
XI đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại,
ưu tiên xây dựng một số lực lượng trong quân đội tiến thẳng lên hiện đại.
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ mục
tiêu phấn đấu: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, tinh, gọn, mạnh, tạo tiền
đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
hiện đại... Đó là mục tiêu khách quan, đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do
đó, việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ
chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.
Không có chuyện cán bộ, chiến sĩ
quân đội đang “vô công rồi nghề”, “đông mà không mạnh” như những kẻ hiềm khích,
chống đối, chống phá cố tình tô vẽ, thêu dệt. Mỗi công dân Việt Nam cần có
trách nhiệm nâng cao nhận thức, cảnh giác trước những chiêu trò thâm độc ấy.
Hãy ngước nhìn lên bầu trời xanh
của Tổ quốc. Chắc chắn rồi, sự bình yên ấy không tự nhiên có được, mà là kết quả
của sự phòng vệ quốc gia từ xa, từ sớm. Ở nhiều nơi trên đất nước này vẫn có sự
hiện diện của tổ chức, đơn vị quân đội luôn “dõi mắt canh trời”, trực SSCĐ
24/24 giờ, với các loại vũ khí có khả năng đánh chặn mọi nguy cơ và các mối đe
dọa trong mọi tình huống; sóng radar giăng từng tấc không khí để kịp thời phát
hiện bất cứ mục tiêu nào dù là nhỏ nhất xâm phạm chủ quyền bầu trời quốc gia.
Và như vậy, chắc chắn sẽ có hàng
nghìn ánh mắt của cán bộ, chiến sĩ dõi lên bầu trời canh giữ bình yên, hay miệt
mài thao tác vũ khí trang bị để bảo vệ, vận hành sự bình yên đó.
Hãy hình dung về 3/4 diện tích đất
nước thân yêu-biển, đảo của chúng ta dẫu còn nhiều “giông bão”, nhưng chủ quyền
thiêng liêng luôn được giữ vững kể từ sau ngày đất nước thống nhất, Bắc-Nam sum
họp một nhà. Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ vẫn trung kiên ngày đêm thực hiện
nhiệm vụ nơi đảo xa, trên những con tàu, nhà dàn DK giữa mênh mông biển lớn.
Tất cả những người lính Cụ Hồ đều
đối diện với các thiệt thòi về vật chất lẫn tinh thần, nhưng luôn không hề nao
núng, thoái thác nhiệm vụ. Hãy thử đặt mình vào vị trí của những người đang ở
nơi “đầu sóng, ngọn gió”, để thêm trân trọng những đóng góp của những chiến sĩ
hải quân một lòng trung hiếu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, chủ quyền Tổ quốc.
Hãy nhìn vào thực tế về một đất
nước bước ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt. Sau mấy chục năm hòa bình lập lại,
vẫn còn đó không ít bom, mìn, vũ khí tồn đọng, có thể cướp đi sự sống của người
dân và hãy khắc ghi sự đóng góp của lực lượng công binh can trường đối mặt với
tử thần, tái tạo sự bình an, mang đến môi trường sống an toàn cho hôm nay, mai
sau.
Hãy nhìn vào nỗi đau cả thể xác
lẫn tinh thần của các nạn nhân chất độc da cam để thấy sự nguy hại đáng sợ của
vũ khí hóa học mà kẻ đi xâm lược nhẫn tâm gieo rắc lên lãnh thổ Việt Nam, để thấm
ngấm đầy đủ hơn đóng góp của cán bộ, chiến sĩ hóa học đang ngày đêm đối diện với
thứ kẻ thù vô hình, xua đi hiểm họa, lấy lại những điều kiện sống cần thiết, tốt
đẹp cho nhân dân...
Lại phải nói rõ hơn về trí tuệ của
người lính Cụ Hồ đóng góp vào cấu hình môi trường sống hiện hữu. Khi chúng ta cảm
nhận về một con đường, một cây cầu, một công trình dân sinh... chỉ nhận thấy
tác dụng bảo đảm giao thông, phục vụ dân sinh, kết nối giữa các vùng miền để
thông thương hàng hóa. Thế nhưng, sự thật không chỉ có thế.
Khi biến cố xảy ra, khi khởi mào
chiến sự, kẻ thù gây hấn, thì lập tức những công trình ấy chuyển hóa phục vụ hiệu
quả cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Các nhà máy, xí nghiệp đều có tính lưỡng
dụng đến mức tối ưu; các làng xã văn hóa đều bảo đảm các yếu tố, thành tố cấu
thành nên khu vực phòng thủ... Những giá trị mang lại ấy là thành quả của trí
tuệ Việt Nam, là sản phẩm của nền quốc phòng toàn dân, mà người lính Cụ Hồ là
chủ thể tiến hành công tác tham mưu, kiến tạo.
Đó là thành quả vô cùng to lớn,
kết nên từ lịch sử chiến tranh và quá trình xây dựng, BVTQ mà QĐND Việt Nam giữ
vai trò nòng cốt.
Trong đó, việc kiến tạo nên lực
lượng 3 thứ quân; bồi đắp cho mỗi người dân lý tưởng, bản lĩnh, kiến thức quân
sự cơ bản... để có thể trở thành người chiến sĩ quả cảm bảo vệ chủ quyền đất nước,
thì quả là "phép màu thần kỳ" được kết nên từ một khối lượng công việc
đồ sộ mà ngay trong thời bình lớp lớp cán bộ, chiến sĩ quân đội đã và đang dày
công vun đắp.
PHM-NNTV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét