Pages - Menu

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2023

“XUÂN QUÝ MÃO NHỚ NHỮNG NĂM MÃO TRONG CUỘC ĐỜI BÁC HỒ”

  

Năm Ất Mão (1915) 25 tuổi. Bác Hồ của chúng ta vẫn mang tên Nguyễn Tất Thành mà người cha đã khai sinh cho Bác. Năm này anh Thành vừa lao động cực nhọc để kiếm sống ở nước Anh sương mù, giá lạnh, vừa mải miết học tiếng Anh với quyết tâm có thêm được chìa khóa ngôn ngữ để mở cánh cửa tri thức, bước vào chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của nhân loại, tìm đường dẫn tới độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc mình đang bị đọa đầy dưới ách thống trị của ngoại bang.

Năm Đinh Mão (1927) 37 tuổi. Nguyễn Tất Thành mang tên Nguyễn Ái Quốc, đã trở thành một chiến sĩ quốc tế đấu tranh kiên cường giải phóng những người cần lao. Từ khẩu hiệu của C.Mác, Ph.Ăng-ghen: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” và của VI.Lê-nin “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”, Nguyễn Ái Quốc đã nêu khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”. Ba khẩu hiệu cách mạng mang tầm trí tuệ của các vĩ nhân nối tiếp nhau như một dòng chảy liên tục của văn hóa, như tiếng kèn thức tỉnh những người cần lao trên trái đất vùng lên đấu tranh cho độc lập, tự do, cơm áo, hòa bình và thịnh vượng chung. Trong năm Đinh Mão này, Người dành nhiều công sức cho việc huấn luyện, đào tạo cán bộ.

Năm Kỷ Mão (1939) 49 tuổi. Thông qua một người bạn là chủ nhiệm Báo Notre Voix, Người gửi cho BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương địa chỉ của mình và “8 điểm định hướng cho đường lối, chủ trương cách mạng Việt Nam”. Trong đó, Người lưu ý: Phải tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi; phải có thái độ khéo léo, mềm dẻo, lôi kéo tư sản dân tộc về phía Mặt trận; kiên quyết chống tư tưởng bè phái, phải tổ chức học tập có hệ thống Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người nhấn mạnh: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.

Năm Tân Mão (1951) 61 tuổi. Năm này cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang trên đà thắng lợi, tình hình chính trị - xã hội và ngoại giao đã có nhiều thuận lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng quyết định triệu tập Đại hội II của Đảng, đưa Đảng ra hoạt động công khai và đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam. Đây là một kỳ Đại hội mang đậm dấu ấn thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản mỗi nước là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Xuất phát từ thực tế lịch sử xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và xác định Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là của nhân dân lao động. Do vậy, đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam là một quyết định chính trị sáng suốt, làm cho Đảng có sức hấp dẫn, lôi kéo các giai tầng khác trong xã hội đoàn kết xung quanh Đảng làm cách mạng. Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội II của Đảng (năm 1951) chỉ rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.

Ngày 25-3-1951 Hồ Chủ tịch viết bài “Người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải như thế nào?” đăng trên Báo Nhân Dân. Người viết: “Tuyên ngôn của Đảng đã trả lời rõ…: Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hǎng hái nhất, cách mệnh nhất. Nó sẽ gồm những người kiên quyết phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, phụng sự lao động, những người chí công vô tư, làm gương mẫu trong công cuộc kháng chiến kiến quốc… Ai mà không như thế, thì không xứng đáng là người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Làm gương mẫu thế nào? Nói chung, thì người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ địa vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn: Đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết/ Phải ra sức tham gia công việc kháng chiến/ Phải gần gũi dân chúng, thương yêu giúp đỡ dân chúng, tổ chức và lãnh đạo dân chúng/ Phải giữ vững đạo đức cách mệnh là chí công vô tư… Vì vậy, mỗi đảng viên phải luôn luôn cố gắng”.

Ngày 1-5-1951 Hồ Chủ tịch viết bài “Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc” đăng trên Báo Nhân Dân, khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hǎng hái nhất, cách mệnh nhất... Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài nǎng… Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, vǎn nghệ, những người làm bàn giấy, v.v..

Ngày 20-5-1951, bài báo “Tự phê bình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng trên Báo Nhân Dân chỉ rõ: “Dao có mài, mới sắc/ Vàng có thui, mới trong/ Nước có lọc, mới sạch/ Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế/ Tự phê bình là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa/ Điều đó nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Khó là vì người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất thể diện, mất uy tín… Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình cho tư tưởng và hành động được đúng đắn.

Ngày 12-7-1951 bài báo “Phê bình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng trên Báo Nhân Dân chỉ rõ: “Khuyết điểm cũng như một chứng bệnh. Phê bình là thuốc để chữa các bệnh khuyết điểm. Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực. Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt không nói, xoi mói sau lưng”. Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể. Mọi người có quyền phê bình nhau để cùng nhau tiến bộ. Không phê bình tức là bỏ mất một quyền dân chủ của mình. Song phê bình phải đường hoàng, chính đáng, quyết không nên “thầm thì thầm thụt”.

Đảng viên và cán bộ, Đảng, các đoàn thể nhân dân và chính quyền cần phải hoan nghênh và khuyến khích nhân dân phê bình. Nếu phê bình sai, thì phải giải thích. Phê bình đúng, thì phải công khai thừa nhận và sửa chữa.

Dìm phê bình hoặc phớt phê bình là khinh rẻ ý kiến nhân dân, là trái với dân chủ, và rất có hại, cũng như có bệnh mà từ chối uống thuốc.

Ngày 19-7-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng trên Báo Nhân Dân bài “Thực hành sinh ra hiểu biết. Hiểu biết tiến lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành”. Trong đó có đoạn viết: “… Lý luận rất quan trọng. Lê-nin nói: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có vận động cách mạng”. Lý luận sở dĩ quan trọng là vì nó dạy ta hành động. Nếu đưa một lý luận rất đúng ra nói, rồi xếp nó lại một xó, không đưa ra thực hành, thì lý luận ấy thành lý luận suông.

Ngày 2-9-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh C.B đăng trên Báo Nhân Dân bài “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”.

Ngày 13-12-1951, Bác Hồ viết bài “Tinh thần trách nhiệm của Bác”, ký tên C.B. đăng trên Báo Nhân Dân có những chỉ dẫn quan trọng: “Hiện nay, phong trào tự phê bình và phê bình đang mở rộng ở nhiều nơi. Đó là một bước tiến đáng mừng. Nhưng trong những cuộc kiểm thảo, có một thiếu sót chung và quan trọng là chưa nêu thật rõ tinh thần trách nhiệm”.

Năm Quý Mão (1963) 73 tuổi. Bác Hồ viết Thư mừng năm mới gửi đồng bào cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Trong thư khẳng định: “Nước Việt Nam là một/ Dân tộc Việt Nam là một/ Dù cho sông cạn đá mòn/ Nhân dân Nam Bắc, là con một nhà/... Chúng ta cùng nhau:/ Mừng năm mới, Cố gắng mới/ Tiến bộ mới/ Chúc Quý Mão là năm nhiều thắng lợi”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét