Tóm
tắt: Cương lĩnh, đường lối của Đảng hình thành trên nền tảng lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn Việt Nam. Trong lịch sử
lãnh đạo, đấu tranh của Đảng, nhiệm vụ xây dựng, phát triển, bổ
sung, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối luôn luôn được đặt lên hàng đầu
để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn và cách mạng đi đến thắng lợi. Đảng
đã phải nhiều lần chống lại sự xuyên tạc, phá hoại của các thế
lực thù địch nhằm vào Cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương
của Đảng. Trong các cuộc đấu tranh đó, Đảng có được những kinh
nghiệm cần thiết để chủ động, kiên quyết bảo vệ Cương lĩnh, đường
lối, bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng vì lợi ích quốc gia,
dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước.
*
Từ khóa: Cương lĩnh, đường lối của Đảng
1.
Sự thống nhất trong Đảng về Cương lĩnh, đường lối, về nền tảng tư
tưởng, về các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật Đảng và về tư cách người
cách mạng đã được khẳng định ngay từ quá trình chuẩn bị thành lập
Đảng. Những nội dung căn bản đó bảo đảm bản chất cách mạng và vai
trò lãnh đạo của Đảng.
Từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 và trải qua các thời kỳ
lãnh đạo cách mạng, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng đã bị
các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ chống phá, xuyên
tạc, phủ định. Điều đó không có gì lạ trong cuộc đấu tranh giai cấp
và đấu tranh dân tộc mà Đảng là lãnh tụ chính trị, luôn luôn trung
thành và nêu cao mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã từng phải chống lại nhiều kẻ thù về
chính trị, tư tưởng và cả về tổ chức.
Vào
những năm 30 của thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện thế lực tơrốtxkít
(những người theo chủ nghĩa Tơrốtxky-chủ nghĩa “tả” khuynh chống lại
lý luận của V.I.Lênin) gồm Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch,
Phan Văn Hùm, v.v. Nhóm tơrốtxkít đã đưa ra khẩu hiệu “tả” để lừa bịp,
lôi kéo quần chúng chống lại đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản lập Mặt trận dân chủ, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ; phản đối
Đảng Cộng sản lập Mặt trận dân chủ với luận điệu giai cấp vô sản
không cần lo cho các giai cấp khác. Họ còn chủ trương ở nước thuộc
địa phải làm ngay cách mạng vô sản, không cần phải làm cách mạng tư
sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân). Để phê phán
tơrốtxkít, năm 1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập viết tác phẩm Tơrốtxky
và phản cách mạng. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm
Tự chỉ trích. Các tác phẩm quan trọng đó khẳng định tính đúng đắn
của đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với thực tiễn Việt Nam
và lợi ích của nhân dân, phê phán thủ đoạn cơ hội chính trị của các
phần tử tơrốtxkít. Tác phẩm Tự chỉ trích còn làm rõ kinh nghiệm
đấu tranh chống các luận điệu sai trái, thù địch và sự mơ hồ, vô
nguyên tắc của một số đồng chí trong Đảng. Năm 1939, trong ý kiến gửi
các đồng chí ở trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Đối
với bọn tờrốtxkít, không thể có thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi
cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt
chúng về chính trị”(1). Đó là kinh nghiệm thành công trong đấu tranh
chống thế lực thù địch về tư tưởng và chính trị.
Đầu
những năm 40, Đảng phải chống lại những phần tử A.B. “A.B là bọn khiêu
khích làm tay sai cho giặc đế quốc, đội lốt cộng sản chui vào Đảng để dò xét và
phá hoại Đảng. A.B tức là chữ Anti-bolchévik viết tắt, nghĩa đen của nó là phản
Bônsêvich, phản cộng”(2). Ngày 25-12-1944, trên báo Cờ giải phóng, Tổng
Bí thư Trường-Chinh viết bài “Kinh nghiệm công tác, làm thế nào nhận
biết một phần tử A.B?”.
Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đường lối chiến lược của Đảng là xây
dựng chính quyền nhân dân, củng cố nền độc lập thống nhất. Trong
hoàn cảnh phải chống giặc ngoài, thù trong, Đảng phải lựa chọn sách
lược thích hợp, lúc thì tạm hòa hoãn với quân Tưởng (của chính
quyền Trung Hoa Dân quốc) ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Nam Bộ, lúc lại hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp để
thúc đẩy quân Tưởng về nước. Chính sách của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh là Hòa để tiến và đã ký Hiệp định Sơ bộ, ngày 6-3-1946
với Pháp. Các thế lực thù địch gồm tơrốtxkít và phản động khác
đã kích động dân chúng, vu cáo Nhà nước cách mạng và Hồ Chí Minh
là bán nước cho Pháp. Đảng phải tiến hành công tác tư tưởng giải
thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách đúng đắn, đồng thời phê phán
luận điệu và hành vi kích động, phản động. Thực dân Pháp mưu mô tách
Nam Bộ khỏi nước Việt Nam. Đồng bào Nam Bộ thật sự lo lắng về số
phận của Nam Bộ. Trước khi lên đường thăm nước Pháp (31-5-1946), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Nam Bộ khẳng định đồng bào
Nam Bộ là dân nước Việt Nam. “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi!”(3), “Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ
Chí Minh không phải là người bán nước”(4).
Những
năm 60 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội “tả” và
hữu khuynh tác động tiêu cực tới các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Bất đồng và mâu thuẫn nghiêm trọng
giữa một số nước xã hội chủ nghĩa. Đảng, Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu cao chủ nghĩa quốc tế, chân thành đoàn kết, trung
thành với chủ nghĩa Mác-Lênin. Một số người thiếu bản lĩnh đã làm
trái đường lối của Đảng, gây chia rẽ, lôi kéo phe nhóm theo nước này
để chống nước kia. Quan điểm sai trái đó đã bị phê phán và khắc
phục tại Hội nghị Trung ương 9 khóa III (12-1963), bảo đảm sự thống
nhất trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hộiở miền Bắc và tiến hành
chiến tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Có những người trên thế giới đã hiểu sai, xuyên tạc
hoặc xét lại chủ nghĩa Mác dẫn tới lộn xộn, sai lầm trong quan
điểm, đường lối gây hậu quả tiêu cực. Trong bối cảnh đó, năm 1968, kỷ
niệm 150 năm ngày sinh C.Mác, đồng chí TrườngChinh viết tác phẩm nổi
tiếng: Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường Các Mác đã vạch
ra. Tác phẩm đã góp phần quan trọng phê phán đấu tranh chống những
luận điệu sai trái về tư tưởng và lý luận, bảo vệ đường lối của
Đảng và con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam, bảo vệ giá trị
khoa học, cách mạng và sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuộc
đấu tranh tư tưởng, lý luận đó đã khẳng định vị thế của Đảng và
những người cộng sản Việt Nam trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế và trong phe xã hội chủ nghĩa.
1989-1991,
chủ nghĩa xã hộitrên thế giới lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc
dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hộiở các nước Đông Âu và
Liên Xô. Nguyên nhân cơ bản là sự phá hoại của chủ nghĩa xét lại,
chủ nghĩa cơ hội chính trị, của các thế lực chống cộng, chống chủ
nghĩa xã hội; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc;
đặc biệt là sai lầm về đường lối của các Đảng Cộng sản cầm quyền,
sự rút lui, đầu hàng của các Đảng trước sự lấn tới, tiến công của
các thế lực thù địch. Đó là tổn thất nặng nề và đau đớn của chủ
nghĩa xã hội, mà những Đảng, những người cộng sản chân chính phải rút
ra bài học cho đến ngày nay.
Ở
thời điểm 35 năm trước, Việt Nam đang thực hiện những bước đi khởi
đầu của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng,
lãnh đạo và đã có được những thành công. Lợi dụng sự biến động
của tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch đã
lớn tiếng nói rằng chủ nghĩa xã hộiđã hết thời, đòi từ bỏ con đường xã
hội chủ nghĩa; đòi chấm dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng.
Đảng đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ những quan điểm sai trái đó,
kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con
đường xã hội chủ nghĩa, phát triển đường lối đổi mới và hoạch định
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đảng nhận thức rõ rằng bảo đảm tính đúng đắn của Cương lĩnh,
đường lối và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành
của Nhà nước có ý nghĩa quyết định để đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh, đã chỉ rõ: “Cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu
sắc của các nước xã hội chủ nghĩa đặt chủ nghĩa xã hội trước sự
phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng. Đáng tiếc là ngay
trong hàng ngỹ những người cộng sản cũng có hiện tượng dao động về
lập trường, những khuynh hướng phủ định các thành tựu, từ đó dẫn
đến phủ định con đường xã hội chủ nghĩa”(5). Tổng Bí thư khẳng định
ý chí của toàn Đảng, kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hộimà Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Đối với Việt Nam
“không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự lựa chọn
của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra
đời của Đảng ta”(6). Cách mạng Việt Nam đang phát triển trên con đường
đúng đắn đã lựa chọn với những thành tựu to lớn, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân với nền độc lập, thống nhất trọn vẹn,
đang quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, không có lý do gì rẽ sang con
đường tư bản chủ nghĩa hay lùi lại thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ,
trao quyền quản lý đất nước cho những thế lực cơ hội, phản động.
Hiện
nay, việc phản bác những quan điểm sai trái, thù địch về cơ bản vẫn
phải nhận diện đúng bản chất và ý đồ của các thế lực đó như những
năm trước đây. Điều cần lưu ý là thủ đoạn của họ tinh vi, phức tạp,
xảo quyệt hơn và triệt để sử dụng công nghệ thông tin để đạt được ý
đồ nhanh nhất, quy mô và diện phá hoại rộng lớn và do đó mức độ
nguy hại không thể xem thường.
Quan
điểm sai trái, thù địch về chính trị hiện nay vẫn là phủ nhận con
đường xã hội chủ nghĩa, đòi Việt Nam từ bỏ con đường đó; đòi Đảng
Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền, thực hiện
đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập. Đó là hai vấn đề căn
cốt để họ lấn tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩaở Việt Nam. Họ cố
chứng minh rằng chế độ xã hội chủ nghĩamà những người cộng sản, các
Đảng Cộng sản cố công xây dựng nhiều chục năm đã không thành hiện
thực, phải chấp nhận sự thất bại như ở Đông Âu, Liên Xô. Cố đi theo
con đường không có tương lai đó là sai lầm, ảo tưởng. Có người cho
rằng, một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩahiện nay, trong đó có
Việt Nam, chỉ là hình thức, trên thực tế là đang phát triển chủ nghĩa
tư bản.
Để
phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, điều quan trọng hàng đầu
là phải trở lại đúng bản chất của chủ nghĩa xã hộitrong học thuyết
Mác-Lênin, hiểu rõ giá trị khoa học và tính hiện thực của lý luận
ấy. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (2-1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã
từng phê phán những quan điểm không đúng về chủ nghĩa xã hộikhi các ông
đề cập tới các loại của Chủ nghĩa xã hội phản động, đó là Chủ
nghĩa xã hội phong kiến, Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, Chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng-phê phán (7).
Phản
bác việc phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa cần thiết phải hướng tới
chứng minh cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn hiện thực của chủ nghĩa
xã hộiđã được xây dựng và có vai trò không thể phủ nhận trong thế kỷ
XX và đang được nhận thức rõ hơn và từng bước hiện thực hóa. Cần
phải tổng kết sâu sắc thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cả trước và
từ khi tiến hành đổi mới, làm rõ những nhận thức mới và thực tiễn
đã và đang diễn ra. Hơn 35 năm qua, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
đường lối đổi mới do Đại hội VI (12-1986) của Đảng đề ra và thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là quá
trình đổi mới tư duy lý luận, từ thực tiễn mà sửa chữa những sai
lầm nhận thức không đầy đủ, không đúng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đổi mới đã khẳng định quyết
tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩalà đúng đắn với những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu về phát triển
lý luận. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hộiở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu, mô
hình của xã hội xã hội chủ nghĩa: về những vấn đề kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, con người của thời kỳ quá độ; về những vấn
đề điều kiện, khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã
hội; về sự cần thiết phải kế thừa, phát triển những thành tựu mà
loài người đã đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là khoa học, công
nghệ và tổ chức quản lý kinh tế, xã hội.
Đối
với các thế lực thù địch về chính trị, chống cộng, chống chủ nghĩa
xã hộitừ trước tới nay, dù có trao đổi, tranh luận như thế nào họ
cũng không từ bỏ lập trường, quan điểm của họ. Cần chú ý rằng, phê
phán, phản bác quan điểm sai trái để đi tới nhận thức đúng đắn trong
nội bộ Đảng và trong xã hội. Từ cái đúng được khẳng định, được
thừa nhận mà đẩy lùi cái sai. Để đi tới nhận thức đúng đắn là vấn
đề lớn đặt ra cả về phương diện tổng kết thực tiễn, nghiên cứu,
tổng kết lý luận. Nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hộivà con đường xã hội
chủ nghĩalà vô cùng quan trọng đối với Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên.
Phải
thấy rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý
để tăng cường giáo dục, thống nhất nhận thức trong Đảng. Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII (10-2016) của Đảng đã nêu rõ những biểu hiện “Phai
nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Xa rời tôn chỉ, mục đích
của Đảng; Không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; Phụ họa
theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”(8).
Quan
điểm sai trái, thù địch là nằm trong âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình” của kẻ địch. Thủ đoạn đó tác động đến cán bộ, đảng viên dẫn
tới làm trái đường lối, Cương lĩnh của Đảng và “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cần phải nhận diện
những biểu hiện và kiên quyết đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”.
Điều
cần nhấn mạnh là 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lại
chính là quan điểm của các thế lực thù địch, được một bộ phận cán
bộ, đảng viên phụ họa, làm theo. Trong 9 biểu hiện đó, cần chú ý
biểu hiện thứ 6: “Móc nối, câu kết với các thế lực thù địch, phản
động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư
tưởng, quan điểm đối lập; vận động tổ chức, tập hợp lực lượng để
chống phá Đảng và Nhà nước”(9). Đó là điều “nguy hiểm khôn lường”
và là một “nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế
độ”. Vì vậy, nhận diện những phần tử thoái hóa, biến chất, nhất
là suy thoái về tư tưởng chính trị là công việc bức thiết hiện nay
để có giải pháp xử lý thích hợp, làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh.
Một
quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch nêu ra từ nhiều năm nay
là: Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị,
vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Họ
phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đòi thực hiện “tam quyền phân lập”. Thực chất là phủ
nhận và đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự
thật là, khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng đã chủ trương kết
hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Xác định
nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt. Từ thành tựu đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới hệ
thống chính trị. Nhận thức rõ rằng, chính trị là lĩnh vực rất quan
trọng đối với một quốc gia, một chế độ, lại là vấn đề rất nhạy
cảm; vì vậy, đổi mới chính trị, phải tiến hành từng bước vững
chắc, thận trọng, không thể hấp tấp, vội vàng. Vấn đề nào đã rõ
thì quyết tâm đổi mới, vấn đề chưa rõ phải tiếp tục nghiên cứu,
tổng kết. Đó chính là bài học thành công trong đổi mới chính trị ở
Việt Nam, bảo đảm giữ vững sự ổn định chính trị trong mọi hoàn
cảnh. Ổn định chính trị là vấn đề hệ trọng của đất nước, là cuộc
sống và nguyện vọng của nhân dân.
2.
Sự nghiệp đổi mới càng phát triển, mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị trở thành mối quan hệ lớn phải được nhận
thức và xử lý đúng đắn tạo động lực cho sự phát triển. Từ năm
1989, xây dựng hệ thống chính trị được đặt ra rất cơ bản thay cho quan
niệm trước đó về hệ thống chuyên chính vô sản. Từ những năm 90, việc
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành
vấn đề rất quan trọng của hệ thống chính trị. Việc sửa đổi Hiến
pháp năm 1980 và ban hành Hiến pháp năm 1992 và gần đây sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 và ban hành Hiến pháp năm 2013 là sự phát triển quan
trọng lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đó là đổi mới rất cơ bản hệ thống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục đổi mới căn bản, đồng bộ
hệ thống chính trị cả về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và
phương thức lãnh đạo, quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức. Cải
cách hành chính và cải cách tư pháp ngày càng làm rõ hơn mô hình
và phương thức vận hành của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quan điểm
được xác định: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành
pháp và tư pháp, là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, không thể áp
đặt mô hình, cơ chế vận hành của nước này vào nước khác.
Các
thế lực thù địch cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ, quyền con
người bị vi phạm. Họ luôn luôn lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền
xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo để đả kích sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước. Sự thật là, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, cần phải nhận thức và
xử lý mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và
quyền làm chủ của nhân dân, tức là quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là vấn đề lớn về lý luận về thực
tiễn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị trong xã hội văn
minh, hiện đại mà con người và nhân dân là trung tâm.
Những
thế lực phản động, thù địch đã từng công khai phủ nhận sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế là sự lãnh đạo của Đảng không
ngừng được đổi mới. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng không những được
nhân dân, toàn xã hội khẳng định mà còn được cộng đồng thế giới và
khu vực, các đối tác thừa nhận. Các đảng chính trị cầm quyền trên
thế giới kể cả không cùng ý thức hệ và chế độ chính trị đều có
quan hệ tốt với Đảng Cộng sản Việt Nam. Thước đo sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, văn
hóa, giáo dục, khoa học phát triển, đời sống nhân dân không ngừng
được cải thiện, nâng cao về mọi mặt, quốc phòng-an ninh được giữ
vững, ngoại giao rộng mở, vị thế uy tín Việt Nam ngày càng nâng cao
trên trường quốc tế. Đó là sự thật mà bất kỳ thế lực đen tối nào
cũng không thể phủ nhận.
Việc
phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch chống lại Cương
lĩnh, đường lối của Đảng luôn luôn được đặt ra trong suốt quá trình
lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 đến nay. Đảng đã có được những kinh
nghiệm quý báu trong cuộc đấu tranh đó. Một là, trong mọi hoàn cảnh,
cần phải công khai làm rõ quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng,
giải thích rõ để đồng chí trong Đảng thống nhất nhận thức, hành
động, tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ, ủng hộ, đồng thuận với Đảng,
không bị kẻ xấu lôi kéo, thao túng. Hai là, không bao giờ được rút
lui, rời bỏ mặt trận tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, và về chính trị thì không có bất cứ sự nhân nhượng, thỏa
hiệp nào, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Phản bác quan
điểm sai trái, thù địch dựa trên cơ sở khoa học, hiện thực từ thực
tiễn cách mạng Việt Nam, bảo đảm tính thuyết phục. Ba là, thẳng
thắn tự phê bình để thấy rõ những sai lầm, khuyết điểm, tự sửa
chữa, hoàn thiện đường lối và sự lãnh đạo là chủ động làm thất
bại ý đồ của địch lợi dụng khuyết điểm của Đảng, của cán bộ,
đảng viên để xuyên tạc, phá hoại. Từ sự Tự chỉ trích của Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Cừ (1939), tự phê bình của Trung ương tại Đại hội VI
(1986) đến tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII của Đảng chính là theo tinh thần ấy. Không bao giờ
được ngủ quên trên vòng nguyệt quế như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở. Đó cũng là cách nâng cao khả năng tự
bảo vệ, chống lại mọi sự xâm nhập phá hoại từ bên ngoài, không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
(1).
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 3, tr. 167
(2).
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T.
7, tr. 516.
(3),
(4). Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 4, tr. 280, 280
(5),
(6). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007,
T. 51, tr. 13, 14
(7).
Xem C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, T. 4, tr. 629-643
(8),
(9). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 28, 33.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét