Tóm
tắt: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người đầy tớ
trung thành của nhân dân. Để xứng đáng là một Đảng Mác xít chân chính, lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng của giai cấp và dân tộc, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây
dựng chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Theo Hồ Chí Minh đây không phải là một giải pháp tình thế mà là một
việc làm thường xuyên. Để bảo đảm giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng trong các
giai đoạn cách mạng cần phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, cán bộ, đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân, đổi mới phương thức
lãnh đạo, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
Từ
khóa: chính
trị, tư tưởng
Chủ
tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, vị lãnh tụ kính
yêu của dân tộc, đã hiến dâng tất cả tình cảm và cuộc đời cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản
vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao
đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại
và thời đại. Trong
kho tàng di sản tư tưởng của Người để lại, những luận điểm của Người về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng là một bộ phận cực kỳ quan trọng. Những luận điểm đó
được hình thành và phát triển cùng với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người
và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đó là sự sự vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam
và sự kết hợp nhuần nhuyễn học thuyết đó với truyền thống bản sắc văn hoá cuả dân
tộc Việt Nam. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người để
xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới là một trong những nhiệm vụ then chốt của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời là cơ sở để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân
dân. Để tiếp tục giải quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang
nỗ lực không ngừng học tập và làm theo tư tưởng của Người.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng
tạo học thuyết Mác - Lê-nin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận
điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam; Đảng phải được
xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng phải
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân thực hiện đường lối đó một cách có hiệu quả nhất. Đảng
muốn giữ được vai trò lãnh đạo, được dân tin, dân phục, dân yêu thì một vấn đề
căn bản là, trong Đảng “từ Trung ương tới các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Để
xứng đáng là một Đảng Mác xít chân chính, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai
cấp và dân tộc, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng chỉnh đốn Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Theo Hồ Chí Minh
đây không phải là một giải pháp tình thế, một chủ trương thụ động mà là một
việc làm thường xuyên để bảo đảm giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng trong các
giai đoạn cách mạng. Điều này được Hồ Chí Minh lúc sinh thời nhắc đi nhắc lại
nhiều lần. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người đã căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại
Đảng, làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ
Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Người đã nêu một
luận điểm quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con ngưAời ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi. Nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Đó là lời cảnh tỉnh cho mọi tổ chức đảng và đảng viên trong
điều kiện Đảng cầm quyền.
Theo
Hồ Chí Minh, “xây dựng” và “chỉnh đốn” là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng.
Phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn, chỉnh đốn cũng nhằm mục tiêu xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh. Mục đích của xây dựng và chỉnh đốn Đảng, theo Người
là làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, bảo đảm cho
Đảng luôn luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân
dân.
Để chỉnh đốn Đảng đạt kết quả tốt, khi tiến hành phải
được chuẩn bị chu đáo, xác định rõ mục đích, yêu cầu, phương châm, nguyên tắc
và hình thức, biện pháp đúng đắn, phù hợp; phải tiến hành trên trước, dưới sau;
phải làm từ trong cấp uỷ rồi đến đảng viên; phải coi trọng ở tất cả các cấp,
hết sức chú ý đến chi bộ, đảng bộ cơ sở; kết hợp chặt chẽ chỉnh đốn tư tưởng
với củng cố, kiện toàn tổ chức; phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đảng
viên, cán bộ và vai trò của các cấp uỷ, tổ chức đảng; dựa vào quần chúng ở cơ
sở, động viên, tổ chức tạo điều kiện cho quần chúng tham gia có hiệu quả công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đất
nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội mới song cũng đứng trước không ít nguy
cơ thách thức, đòi hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng phải không ngừng được củng cố
tăng cường. Đảng phải tiếp tục được xây dựng và chỉnh đốn thật sự trong sạch,
vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các mặt, chính trị, tư tưởng và
tổ chức.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng phải được thường
xuyên chỉnh đốn”, trải qua hơn 90 năm xây dựng tổ chức và hoạt động của mình,
Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên coi trọng tự chỉnh đốn nhằm bảo đảm cho
Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững và phát huy
được vai trò lãnh đạo đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trước khi giành được chính quyền, có lúc cách mạng lâm
vào thoái trào, cán bộ và đảng viên của Đảng bị bọn thống trị thực dân và phong
kiến tay sai bắt bớ hàng loạt, nhưng mặc cho tù đày, bắn giết, người trước ngã
xuống, người sau tiếp bước đi lên không hề sờn lòng nản chí. Có khi nhiều tổ
chức cơ sở đảng, nhiều cấp uỷ, kể cả Trung ương bị tan vỡ, nhưng Đảng vẫn phục
hồi nhanh chóng, sự lãnh đạo của Đảng vẫn đúng đắn kịp thời, nhạy bén, thông
suốt từ trên xuống dưới. Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, khi Đảng mới 15 tuổi với khoảng
5000 đảng viên cộng sản.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta
trở thành đảng cầm quyền. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới cũng như từ bản thân Đảng, với sự chỉ dẫn của tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã tiến hành nhiều đợt chỉnh đốn. Đặc biệt, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, có lúc Đảng đã phạm phải khuyết điểm sai lầm, một bộ phận cán bộ,
đảng viên đã thoái hoá biến chất, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của
Đảng. Với tinh thần cách mạng của một đảng cách mạng, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
dám công khai thừa nhận khuyết điểm sai lầm trong công tác lãnh đạo, công khai
vạch rõ những tệ nạn đã có ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó đề ra những
biện pháp cần thiết để sửa chữa, khắc phục. Đó là thái độ của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức vào nửa sau những năm 50 của thế kỷ XX, cũng như đối với những suy thoái
của cán bộ, đảng viên ở những thời kỳ khác nhau. Đó là thái độ của Đảng ta đối
với những sai lầm về chủ trương chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lựơc và tổ
chức thực hiện trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước
vào cuối những năm 70, để từ đó Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(năm 1986) xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một bước ngoặt cho sự
phát triển của đất nước ta.
Cần khẳng định rằng, trong những năm đầu tiến hành công
cuộc đổi mới, Đảng ta đã cố gắng vươn lên để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Chình vì vậy, tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “công cuộc đổi mới
đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng”. Song Đảng ta cũng nghiêm
khắc chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm là:
Việc nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội vẫn là điểm
hạn chế của Đảng. Thực tiễn diễn ra vô cùng phong phú và phức tạp, Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta khẳng định là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Nhưng việc hiểu cho đúng và vận dụng
cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ cụ thể ở nước ta vẫn là
vấn đề không đơn giản. Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản
trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng trong thực hiện bị vi
phạm ở nhiều nơi. Trên thực tế, việc thực hành dân chủ trong Đảng đồng thời mắc
cả hai khuyết điểm: Một là, nhiều tổ chức đảng không phát huy được tinh thần
dân chủ trong việc quyết định các chủ trương, biện pháp; Hai là, trong Đảng đã
xảy ra tình trạng tự do vô nguyên tắc, làm giảm sút và tê liệt sức chiến đấu
của Đảng và đảng viên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn nhiều yếu kém, mặc dù
đã có nhiều thay đổi nhưng chưa tạo ra được chất lượng mới. Cơ chế tuyển chọn,
bố trí, và sử dụng cán bộ chưa chú ý đúng mức. Do vậy, số cán bộ có đủ phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới chưa nhiều.
Trước thực trạng đó, khi nêu lên yêu cầu đổi mới và chỉnh
đốn Đảng, chúng ta thấy rõ vấn đề then chốt là nâng cao vai trò lãnh đạo cũng
như năng lực và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức để có thể đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội giành
thắng lợi. Đổi mới và chỉnh đốn bản thân mình, tức là Đảng phải phát huy ưu
điểm, khắc phục khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối quan hệ máu thịt với
nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đến
thắng lợi. Đây là vấn đề sống còn, có quan hệ ổn định và phát triển lâu dài của
đất nước và vận mệnh của bản thân Đảng ta.
Tổng kết 35 năm đổi mới đất nước, trong báo Chính trị của
Ban chấp hành trung ương Đảng Khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng, Đảng ta đã đánh giá kết quả thực hiện công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng và tiếp tục khẳng định đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội đã chỉ rõ: Nhìn một cách tổng quát, trong 35 năm qua, bên cạnh những
thành tựucông tác xây dựng Đảng đạt được những thành tựu sau đây:
Công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng. Kiên định đường lối
đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng. Công
tác xây dựng Đảng về tư tưởng được tăng cường; công tác bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh
đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực; nghiên cứu và giáo dục lý luận
chính trị tiếp tục được chú trọng, Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được
bổ sung, phát triển. Công tác xây dựng
Đảng về đạo đức được đề cao, góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, "lợi ích nhóm",
những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự
diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Việc triển khai Chỉ
thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện đồng bộ với các quy định của Đảng về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu.
Công tác xây dựng Đảng về tổ chức được
thực hiện với quyết tâm chính trị cao, tập trung kiện toàn, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị, có bước chuyển biến thật sự. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức
cơ sở đảng, nâng cao, có chuyển biến tích cực. Công tác cán bộ có nhiều đổi mới. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ
được quan tâm hơn. Công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng
bộ, có nhiều đổi mới. Công tác phòng,
chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện,
đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có
ngoại lệ, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân
đồng tình, ủng hộ. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và có chiều
hướng giảm. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện
nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc
pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Tuy
nhiên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn nhiều khuyết điểm, nổi bật là
những vấn đề lớn:
Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết
còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Thực hiện các nguyên tắc xây dựng
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa
nghiêm, thậm chí vi phạm. Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp uỷ coi
trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm
đúng mức. Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan
điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, tính chiến đấu chưa cao;
Việc thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công
tác cán bộ còn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và
quy định của Đảng; chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn
tâm, toàn ý với công việc. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số
tổ chức đảng còn thấp. Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa
được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu. Công tác xây dựng,
phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn
lúng túng, hạn chế; công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng nông thôn
còn nhiều khó khăn. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số
nơi còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm
sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chuyển biến chưa đều; công tác phòng ngừa
chưa được quan tâm đúng mức. Công tác bảo
vệ chính trị nội bộ chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề chính trị hiện nay. Công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế;
việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là những địa bàn phức tạp chưa
kịp thời, sâu sát. Công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ
rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện,
xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát
hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình
trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được
đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng,
phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham
nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có
mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy
đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Từ thực trạng về công tác xây dựng Đảng đã nêu, để thực
hiện những mục tiêu và nhiệm vụ mà các kỳ Đại hội Đảng nêu ra, Đảng ta phải
tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực,
yếu kém. Đảng phải vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở tất cả các cấp, các
ngành. Tuy nhiên, đứng trước những đòi hỏi của thời đại như vấn đề toàn cầu
hoá, nền kinh tế trí thức; những vấn đề thực tiễn đặt ra như: lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay... đang
đòi hỏi đảng phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển lý luận
nền tảng tư tưởng của Đảng trong khi các thế lực thù địch tập trung mũi nhọn
chống phá sự lãnh đạo của Đảng ta bằng nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc. Trước
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đặt ra trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá đất nước vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Để Đảng thật sự là niềm tin, là trí tuệ dẫn dắt
toàn dân tộc quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện
nay cần phải quán triệt và tiến hành tốt một số vấn đề cốt yếu sau đây:
Một là, tăng cường xây
dựng Đảng về chính trị. Vấn đề mấu chốt nhất của
xây dựng Đảng về chính trị là phải không ngừng củng cố và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Đó là sự trung thành và vận dụng đúng đắn di huấn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi Đảng phải
“Kiên định chủ Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp;
không giao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống
giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc”.
Hai là, nâng cao hiệu quả
công tác tư tưởng, lý luận. Tăng cường nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ
nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận đề ra đường
lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc
hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận.
Tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết
phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố mới, điển hình
tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách
mạng. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.
Ba là, rèn luyện đạo đức
cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân. Việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu
dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân
dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng,
thực sự là một tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên
phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân.
Cán
bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và
nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Triển khai thực
hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về
tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi
phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Bốn là, củng cố Đảng về
tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Có quy định cụ thể để mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đầy đủ
nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Cán bộ, đảng viên phải có tính tổ
chức, tính kỷ luật, chịu sự quản lý của chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê
bình. Mọi hoạt động vô tổ chức, vô kỷ luật, cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị
quyết, gây chia rẽ, bè phái, làm suy yếu khối đoàn kết, thống nhất của Đảng
phải được xử lý kỷ luật nghiêm túc. Tiếp tục cải tiến bộ máy của Đảng, xác định
rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức. Cán bộ, đảng viên phải
hết sức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh, đường
lối, tình thương yêu đồng chí và các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Phát
hiện và giải quyết dứt điểm tình trạng mất đoàn kết trong các tổ chức đảng và
cơ quan, đơn vị, địa phương.
Năm là, đổi mới và nâng
cao chất lượng công tác cán bộ. Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt chiến lược công tác cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục
những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm
các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng
dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy
hoạch và tạo nguồn cán bộ. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng
lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Có chế tài xử lý nghiêm những
trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp,
chạy huân chương.
Sáu
là, tăng
cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đặc biệt, trong điều kiện
Đảng cầm quyền, Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây
dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý
chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công
chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
Bảy là, đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Các cấp ủy, tổ
chức đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà
nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ
công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp. Hoàn
thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán
bộ, đảng viên.
Tám là, tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Tập trung rà soát, bổ
sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy
định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm
thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đổi mới
cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sở
kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục,
giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm
Tóm lại: Trung thành với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; nhiều đảng viên và tổ chức đảng tính chiến đấu chưa cao, nhất là ở tổ chức cơ sở đảng. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bản thân luôn tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, kiến thức về mọi mặt, thường xuyên tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có lối sống lành mạnh, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng, thường xuyên đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, tôn trọng, chấp hành nghiêm và phục tùng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, pháp luật Nhà nước, quy định của đơn vị, thực hiện tốt các nghĩa vụ với địa phương, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của tập thể, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, hoà đồng với quần chúng, tạo được lòng tin đối với mọi người.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính
trị Quốc
gia, Hà
Nội.
[2]. Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Tập 1, tr.92.
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.276
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.275
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.619
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611
[7]. Nguyễn Phú
Trọng (2005), Xây dựng chỉnh đốn Đảng một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét