Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành
công, thành công, đại thành công”. Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường
lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Quán triệt tư tưởng của Người
Đảng ta nhận thức rõ vai tròcủa đoàn kết – là cội nguồn sức mạnh trong xây dựng
và phát triển đất nước. Đại hội XIII khẳng định: “… khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
với sức mạnh của thời đại” nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ
XXI. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu
vực, tình hình kinh tế, xã hội ở trong nước, các thế lực thù địch đã ra sức
tuyên tuyền xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng trên nhiều vấn đề, trong đó
có vấn đề về đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, mỗi chúng ta cần nhận diện và
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh, phê phán những
quan điểm sai trái, thù địch với tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc
của Đảng, nhất là quan điểm cho rằng: Đảng ta phân biệt đối xử với người
dân tộc thiểu số - Đây là quan điểm sai trái thù địch nhằm chia rẽ khối đại
đoàn kết, gây kích động nhằm thực hiện mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch.
Phát
huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam, trước yêu cầu tập hợp sức
mạnh toàn dân cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, khi bàn về đại đoàn kết toàn dân tộc Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay
Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, no đói giúp nhau… Ngày nay nước Việt Nam
là nước chung của chúng ta… Giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên
tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta”.
Quán
triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định, đồng bào các dân
tộc thiểu số là máu thịt của dân tộc Việt Nam, là bộ phận không thể tách rời
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn trân
trọng và ghi nhớ những đóng góp, hy sinh của đồng bào, chiến sĩ các dân tộc
thiểu số trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm chăm lo phát triển vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cùng với sự phát
triển chung của cả nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan
trọng trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, có vai trò to lớn trong phát triển
kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Nếu ai kỳ thị với
đồng bào dân tộc thiểu số là đi ngược lại với truyền thống lịch sử dân tộc, là
trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hành động này
là mắc mưu của các thế lực thù địch đẩy đồng bào các dân tộc thiểu số (một lực
lượng cách mạng to lớn) về phía của kẻ thù. Vì vậy, phân biệt, đối xử với đồng
bào các dân tộc thiểu số đây chính là những luận điệu sai trái, phản động hòng
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với Nhân dân; kích
động, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số chống phá Đảng, Nhà nước, gây rối làm
mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Thời
gian vừa qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế,
xã hội, nhưng với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Nhà nước đã xây
dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch thúc đẩy sự phát triển, thu hẹp
khoảng cách giữa các vùng miền, các dân tộc, đem lại những thay đổi lớn lao
trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế… ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Trong công cuộc đổi
mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng thực hiện vấn đề
này. Tiêu biểu như Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị Về
một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Nghị
quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về công tác dân tộc; Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 20-10-2015 của Ban
Bí thư Về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số… Những chủ trương, đường lối, quan điểm đó của Đảng được Nhà
nước tích cực thể chế hóa thành nhiều luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định,
chỉ thị, thông tư. Từ năm 2010 đến 2015, Chính phủ đã ban hành khoảng 154 chính
sách về vấn đề dân tộc.
Đánh
giá về kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đối với đồng bào
các dân tộc trong thời gian qua, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, khẳng
định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng
phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu
tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có
đông đồng bào dân tộc thiểu số”. Cùng sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự nỗ
lực, cố gắng của chính quyền địa phương và đồng bào các dân tộc thiểu số, kinh
tế, văn hóa, xã hội… vùng dân tộc thiểu số có bước phát triển quan trọng: 99,4%
xã có đường ô tô đến trung tâm; 99,5% xã có trạm y tế; 100% xã có điện; 90% xã
được phủ sóng, phát thanh truyền hình; 100% xã có trường mầm non, tiểu học; tỷ
lệ hộ nghèo giảm mỗi năm 3-4%; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân
tộc thiểu số được nâng lên.
Như
vậy có thể nói, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, xây dựng đoàn kết toàn dân tộc là bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu
đã được lịch sử dân tộc ta chứng minh. Bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc và đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đòi hỏi không ngừng củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân
và cả hệ thống chính trị. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân bên
cạnh việc nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc, cần nêu cao cảnh
giác, kiên quyết đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, trái
với tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng góp phần củng cố, tăng
cường đoàn kết dân tộc, tạo động lực to lớn để phát triển đất nước nhanh và bền
vững.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét