Pages - Menu

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2017

Tiểu luận: Sinh viên học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Cả cuộc đời người đã hi sinh cho dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Người quan tâm sâu sắc tới giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cho thanh niên, học sinh. Người nêu cao tư tưởng đạo dức là gốc, là nền tảng của xã hội, là nền tảng của con người, cũng giống như gốc của ngọn cây, ngọn nguồn của sông suối. Người đã viết 'Cũng như sông, có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.. Người còn coi đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Mỗi người có mỗi công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ không lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, 'lo trước thiên hạ', 'vui sau thiên hạ', không kèn cựa, công thần, quan liêu, kiêu ngạo... Người có đạo đức cách mạng là người luôn luôn ra sức làm việc cho nước, cho dân, cho Đảng. Vì Đảng vì dân mà ra sức học tập văn hoá, khoa học, toàn tâm, toàn ý phục vụ con người.


➽Hãy về quỳ dưới đất Mẹ, xin lỗi nhân dân, tu tâm dưỡng tính, Tổ quốc sẽ khoan hồng!➽Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!


Học sinh, sinh viên là thế hệ tương lai của nước nhà, là rường cột của quốc gia, mỗi sinh viên cần phải có đủ phẩm chất, trí tuệ và năng lực để đáp ứng yêu câu cao cả và thiêng liêng đó, vì vậy, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu.
Chúng ta đều biết, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức trọng hành động: nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư. Dưới ngọn cờ của tư tưởng đó, trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được nhiều kì tích to lớn, đóng góp vào tiến trình chung vào lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, song nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, trây lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, do sự bùng phát của lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi bất chấp đạo lí đã dẫn đến những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”. Đó là “tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của nhân dân và doanh nghiệp, chậm được khắc phục”. Đó còn là tình trạng “một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”. Thêm vào đó là những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”… đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lí tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút sách; thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
Để phát huy hơn nữa vai trò trách nhiệm cũng như khắc phục những hạn chế yêu kém của sinh viên Việt Nam hiện nay, cần tập trung làm tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tập trung trên các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất,  học tập đức Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.
Trung hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc Việt nam và Phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào đó những nội dung mới trước kia là Trung quân, là trung thành với vua, trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước vì vua với nước là một, vua là nước, nước là vua còn Hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, tư tưởng trung với nước  hiéu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước của dân tộc. Nước ở đây là nước của dân còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề, bao nhiêu quyền hạn đều của dân , bao nhiêu lợi ích đều vì dân . Tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân so với trước Đảng và chính phủ là “đầy tớ của nhân dân” chứ không phải ông quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn .
  Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt,  qua kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi  hành động vừa là định hướng chính trị đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn lâu dài về sau.
Thứ hai, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời tư trong sáng, giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
  Đây là phẩm chất đạo đức gắm liền với hoạt động hàng ngày của mọi người, vì vậy Hồ Chí Minh đã đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất , thường xuyên nhất từ “Đường kách mệnh ”cho đến bản Di chúc cuối cùng .
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm Cần kiệm liêm chính chí công vô tư của đạo đức Phương Đông và đạo đức Việt Nam.Người đã giữ lại những gì tốt đẹp nhất của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới , do sự nghiệp giải  phóng  dân  tộc , thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã  hội đặt  ra.
Mỗi chữ cần kiệm liêm chính chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ dàng cụ thể rất dễ hiểu đối với mọi ngườiM, theo Hồ Chí Minh thì :
   Cần: Tức là laođộng cần cù, siêng năng lao động, có kế hoạch , sáng tạo , có năng xuất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh tự giác không lười biếng , không ỉ lại không dựa dẫm phải thấy rõ “lao độnglà nghĩa vụ thiêng liêng là nguồn hạnh phúc của chúng ta”.Ngày nay trong sự nghiệp công nghiệp ho á- hiện đại hoá cũng như sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ ttừng bước hiện đại yêu cầu đối với cán bộ đảng viên làphải có ý thức vươn lên, lao động sáng tạo cần cù, dũng cảm tổ chức sản xuất giỏi đạt năng xuất chất lượng hiệu quả cao có khả năng cạnh tranh cao.
   Kiệm: Tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ , tiết kiệm tiền của dân , của nước , của bản thân mình , phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ , nhiều cái nhỏ công lại thành cái to “không xa xỉ , không hoang phí , không bừa bãi”không phô trương hình thức, không chè chén lu bù.Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại , đối với cán bộ đảng viên không được xa hoa , phô trương , hình thức không làm những công trình không thiết thực đối với đời sống nhân dân vàtập thể  đơn vị không xây dựng những công trình kém chất lượng gây lãng phí thời gian và tiền của và sức lực của nhân dân quý từng đồng tiền hạt gạo của dân, quý trọng giữ gìn và sử dụng có hiệu quả tài nguyên của đất nước.Luôn luôn tìm mọi cách lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị đạt hiệu quả cao nhất trong việc sử dụng công sức bộ đội , vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, thời gian…trong mọi hoạt động của đơn vị hợp lý nhất , có lợi nhất.Không để lãng phí, mất mát gây tổn thất cho quân đội

Liêm: Tức là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, khỗngâm phạm một đồng xu hạt gạo của nhà nước của dân, phải trong sạch không tham lam , không tham địa vị , không tham tiền tài , không tham sung xướng, không ham ngưới tâng bốc mình , vì vậy mà quang minh chính đại , không bao giờ hủ hoá “chỉ có một tham muốn là ham học ham làm , ham tiến bộ”.Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm như “cậy quyền cậy thế mà đục khoét dân ăn của đút hoặc trộm của công làm của tư” “dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm), gặp việc phải làm mà sợ khó nhọc nguy hiểm không dám đánh là thámsống.Liêm là không tham ô hối lộ , bòn rút của công ăn bớt của dân , phải sống trong sạch lành mạnh quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng lãng phí quan liêu và mọi tệ nạn mọi sai trái khác.

 Chính: nghĩa là không tà, thẳng thắn đứng đắn đối với mình không tự cao tự đại, luôn chịu khó học tập càu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm phát triển tiếp thu điều hay, sửa chữa điều dở của bản thân mình .Đối với người không nịnh hót, người trên , không xem khinh người dưới , luôn giữ thái độ chân chính khiêm tốn , đoàn kết, thật thà, không dối trá lừa lọc.Đối với việc để công việc lên trên lên trước việc t ư, việc nhà.Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi , đến chốn, không sợ khókhăn, nguy hiểm việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm cho được, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh mỗi ngày cố làm một việc lợi cho dân cho nước.Chính là quang minh chính trực , trung thực thẳng thắn , không làm ăn gian dối, không báo cáo sai sự thật, không dối trên là dới, không bè phái cơ hội , dám nhìn thẳng vào sự thật , công khai minh bạch , dân chủ , biết nghiêm khắc biết khoan dung.

 Chí công vô tư  : Người nói “đem lòng chí công vô tư mà đối với người  với việc”khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước , khi hưởng thụ thì mình nên đi sau “phải lo trước thiên h ạ, vui sau thiên hạ”.Đối lập với chí công vô tư là dĩ công vô tư đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống, trước mắt cán bộ , đảng viên và các cơ quan , các đơn vị đoàn thể, cấp cao thì quyền to , cấp thấp thì quền nhỏ , dù to hay nhỏ , có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đuục khoét, có dịp ăn của đút , có dịp “dĩ công vi tư”.

  Cần, kiệm , liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau có khi Hồ Chí Minh coi cần kiệm như hai chân của con người phải đi đôi với nhau, cầnmà không kiệm thì chẳng khá nào gió vào nhà trống, nước đổ vào chiếc thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc “không lại hoàn không”còn kiệm mà không cần thì sản xuất được ít không đủ dùng , không tăng thêm , không có phát triển, có khi người coi: Cần, Kiệm, Liêm , Chính là bốn đức tính của con người Việt Nam, thiếu một đức thì không thành người cũng nh ư:

          “Trời có bốn mùa…

            Đất có bốn phương…

            Thiếu một mùa thì không thành trời.

             Thiếu một phương thì không thành đất.”

Cùng với việc thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư mỗi sinh viên phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống lại mọi tàn dư của xã hội cũ, mọi tiêu cực và tệ nạn xã hội. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm “do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô  hủ  hóa, lãng  phí  xa  hoa…tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, coi  khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, xa  rời  thực tế, xa  rời  quần chúng, mắc bệnh  quan liêu mệnh lệnh…” vì thế, muốn  xây dựng đạo đức cách mạng , hoàn thành nhiệm vụ được giao “người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Đồng thời, nêu cao tinh thần khiêm tốn, luôn biết lắng nghe, học hỏi, cầu tiến bộ, có như vậy mới làm cho chúng ta vững vàng trước mọi thử thách, có đủ bản lĩnh để làm chủ bản thân, tích cực tham gia bảo vệ và xây dựng thành công đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu với con người.
Với Hồ Chí Minh, tin vào sức mạnh con người, vào sức mạnh của quần chúng nhân dân là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Yêu thương con người sống có nghĩa có tình là một trong những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Với Bác tình yêu thương con người là không biên giới. Người lo cho dân tộc mình, Người lo cho các dân tộc anh em, những người cùng khổ trên thế gian này. Bác dạy rằng: Yêu thương con người là phải tôn trọng nhau, quý trọng nhau. Bác nhắc nhở khi phê bình nhau, cần đúng lúc đúng chỗ. Phê bình là để giúp đỡ nhau tiến bộ chứ không phải là cái cớ để sát phạt nhau, bới móc nhau. “Trong mỗi con người đều tồn tại cái xấu và cái tốt. Hãy làm cho cái tốt ngày càng nảy nở như hoa mùa xuân và cái xấu ngày càng mất dần đi”. Để làm được điều ấy thì trên hết chính là tình yêu thương, là nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực. Bác Hồ là "muôn vàn tình thân yêu" đối với đồng chí, đồng bào.
            Tình thương yêu đó được mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Đối với những người lầm lạc, ngay cả đối với những người chống đối hay kẻ thù, Người cũng thể hiện một lòng khoan dung, độ lượng hiếm có. Kẻ thù xâm lược đã gây nên bao tội ác man rợ đối với nhân dân ta, nhưng khi chúng đã thất thế, đầu hàng hay bị bắt, Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải đối xử với chúng một cách khoan hồng, phải làm "cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước". Với tinh thần đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại, Bác đã cảm hóa được những người ở bên kia chiến tuyến, những phạm nhân trong lao tù. Năm 1946, Bác tới trại giam Hỏa Lò để thăm hỏi, khuyên bảo những phạm nhân ở đây. Bác ân cần ngồi bên họ, khuyên bảo họ, nghe họ phân trần, và Người đã rưng rưng nước mắt. Trong bức thư gửi cho người Pháp, Bác nói: “Than ôi, trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau”.
Thứ tư, học tấm gương về ý chí, nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích sống.
Trong cuộc sống, mỗi người trong chúng ta ai cũng chọn cho mình một con đường đi riêng, một mục đích riêng để đạt tới. Trên con đường ấy, chắc hẳn không chỉ là những thảm đỏ trải đầy hoa hồng mà còn có rất nhiều chướng ngại phải vượt qua. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng muốn chọn con đường bằng phẳng, ít chông gai nhất! Thế nhưng, đã có một con người Việt Nam vĩ đại đã chọn con đường khó khăn, gian khổ nhất để tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Ở Người toát lên ánh sáng diệu kỳ của ý chí, nghị lực phi thường, sự kiên trì và lòng quyết tâm sắt đá để đạt được mục đích. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như mặt trời chói lọi chiếu rọi tâm trí chúng ta. Lúc sinh thời, Người  từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Ngày 05/6/1911, Người rời bến Nhà Rồng để sang Pháp chỉ với đôi bàn tay trắng. Trước khi ra đi, anh Lê – một người bạn của Người hỏi làm thế nào để sống được nơi đất khách quê người. Rất đơn giản nhưng cũng rất mạnh mẽ, Người đưa hai bàn tay ra và khẳng định với một ý chí sắt đá không gì có thể lay chuyển nổi.
Người đã đi và trải qua biết bao nhọc nhằn, vất vả trên bước đường gian truân ấy. Thế nhưng, không một phút giây nào Người nao núng, chán nản. Cuộc hành trình của Người còn ròng rã trải qua khắp các châu lục Á, Âu, Phi, Mĩ. Rất nhiều lần Người phải chịu cảnh tù đày trong ngục thất... Với nghị lực và ý chí sắt đá, Người đã vượt qua tất cả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời mình để tìm ra chân lý của thời đại, đem lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Người đã vượt qua biết bao sóng gió để đưa con thuyền cách mạng cập bến vinh quang. Báo Ấn Độ quốc gia đã từng viết: “Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của cụ Hồ là một ý chí sắt thép. Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi, anh hùng không gì uy hiếp nổi”. Tấm gương của Bác được thể hiện từ những cử chỉ, hành động thật nhỏ, thật đời thường. Nhưng tấm gương ấy không phải chỉ để soi cho thấy, để nhìn cho biết mà còn phải học tập và làm theo nữa.
Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích được tỏa sáng từ tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thấm nhuần trong lực lượng Công an và Quân sự quận Thủ Đức chúng tôi! Hãy cùng chúng tôi nắm chắc tay nhau, nối vòng tay lớn, tiếp thêm ý chí và nghị lực để chúng tôi tiếp tục sống và tiếp tục cống hiến hết mình vì bình yên cuộc sống hôm nay!
Để cuộc việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với đội ngũ sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự bồi dưỡng, rèn luyện của sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội, trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lí giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét