Pages - Menu

Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2017

Quá trình hình thành, phát triển đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp cách mạng Việt Nam, được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết của Đảng. Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi phản ảnh đúng qui luật vận động khách quan. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Đảng không ngừng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, phát triển đường lối.


Đường lối cách mạng của Đảng luôn phản ánh toàn diện và phong phú trên tất cả các mặt. Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng, nhưng cũng có đường lối cho từng thời kỳ lịch sử, trong đó, đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là một trong những đường lối cách mạng có vị trí và ý nghĩa quan trọng, quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân là một nhiệm vụ cần thiết để làm sáng tỏ vai trò của đường lối cách mạng nói chung, vai trò và giá trị của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta nói riêng.


NỘI DUNG
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ  chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Điều này phản ánh quá trình tự ý thức của những người cộng sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất. Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi cho những cộng sản Đông Dương tài liệu “Về  việc thành lập một Đảng cộng sản  ở Đông Dương”, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ  rõ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế. Nhận được tin về  sự  chia rẽ  của những người cộng sản  ở  Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng (họp tại Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị  nhất trí với Năm điểm lớn  theo đề  nghị  của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên đảng là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ  vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, qưyết định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24/2/1930, theo yêu cầu của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban chấp hành Trung ương lâm thời họp và ra nghị quyết chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, trong vòng nửa tháng kể  từ sau khi hội nghị hợp nhất kết thúc, Đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến 3 tổ chức cộng sản, đến Đảng cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời cũng đáng dấu sự hình thành những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng Việt Nam, làm tiền đề, cơ sở cho đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng ta.
Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu chính thức hình thành khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, được thể hiện thông qua các văn kiện của Hội nghị hợp nhất: Chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này đã xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Phương hướng chiến  lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông; thủ  tiêu hết các thứ  quốc trái; tịch thu toàn bộ  sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ. Dân chúng được tự do tổ chức hội họp, nam nữ bình quyền, v.v; phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Cương lĩnh cũng chỉ rõ, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp để xây dựng một Mặt trận chung nhằm đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Về phương pháp cách mạng, cương lĩnh xác định: Phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam là dùng sức mạng tổng hợp của quần chúng nhân dân, đó là bạo lực cách mạng: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến, đánh đổ các Đảng phản cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đồng thời, cương lĩnh khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã quy tụ 3 tổ chức cộng sản thành 1 Đảng cộng sản duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam – theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự  thống nhất về  tư tưởng, chính trị  và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấ  tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và ngay từ đầu đã xác định những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam là “một bước ngoặc vô cùng quan trọng trong lịch sử  cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất (10/1930) họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì đã tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, trong đó chỉ rõ phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương là: lúc đầu cách mạng Đông Dương là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế, “tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ  dự  bị  để  làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, “cách mạng tư sản dân quyền” chính là tiền đề quan trọng của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng ta, nhiệm vụ  của cách mạng tư sản dân quyền là: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ, để  tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi, và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong 2 nhiệm vụ này, Luận cương xác định “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Trước những biến chuyển của tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản, trong những năm 1936 – 1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã họp hội nghị  lần thứ hai (7/1936), lần thứ 3 (3/1937), lần thứ 4 (9/1937) và lần thứ 5 (3/1938)… đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta. Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh: Ban chấp hành Trung ương xác định cách mạng Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức xô viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Song. Xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp bách trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này. Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Về nhiệm vụ trước mắt củaa cách mạng: Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.  Để  thực hiện những nhiệm vụ  trên, Ban chấp hành Trung ương quyết định thành lập mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể  chính trị, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên minh công nông. Để phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng trong tình hình mới, Mặt  trận nhân dân phản đế  đã  được đổi tên thành mặt trận dân chủ  Đông Dương.
Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện các quyền dân chủ dân sinh, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10.1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng”. Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời, vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế  quốc, cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. “Nói  tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở  cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để  tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”
Đây là nhận thức mới của Ban chấp hành Trung ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930. Tháng 3/1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã nghiêng về phía hữu, ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo riết chuẩn bị  chiến tranh.  Tuyên ngôn  kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
Tháng 7/1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ  cho xuất bản tác phẩm  Tự  chỉ trích. Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương - một vấn đề chính trị  trung tâm của Đảng lúc đó. Tác phẩm chẳng những có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về xây dựng Đảng, về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Tóm lại, trong những năm 1936  –  1939, chủ  trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công – nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra  các hình thức tổ  chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do.
Kể từ  khi chiến tranh thế  giới thứ  II bùng nổ, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 6 (11/1939), hội nghị lần thứ 7 (11/1940) và hội nghị lần thứ 8 (5/1941). Trên cơ sở khẳng định khả năng diễn biến của chiến tranh thế giới thứ  II và căn cứ vào tình hình cụ  thể ở  trong nước, Ban chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, theo đó xác định, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để  tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”. Quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Để  tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả  nước, Ban chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ  lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước, không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau, đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi. Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban chấp hành Trung ương chỉ rõ việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ  trung tâm của Đảng ta và nhân dân trong giai đọan hiện tại”. Trung ương quyết định duy trì lực lượng du kích Bắc Sơn và chủ  trương thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm. Ban chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: “Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiên hơn cả mà đánh lại quân thù… với lực lượng sẵn có, ta có thể  lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. Ban chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chú trọng gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ  lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự  chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ  trương đúng đắn để  thực hiện mục tiêu ấy. Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Sau hội nghị  lần thứ 8 của Đảng (5/1941), Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả  nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp  - Nhật. Người nhấn mạnh: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”.
   9/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ  cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có thuận lợi cơ bản vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo. Hệ  thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở  thành 1 dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ  và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Chính quyền dân chủ  nhân dân được thành lập, có hệ thống từ  trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ  vận mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tuy nhiên, hậu quả do chế độ cũ để lại rất nặng nề như: nạn đói, nạn dốt, ngân quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu. Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế  giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cùng với đó, với danh nghĩa quân Đồng minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn nhằm tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh  nhằm giữ  vững chủ  quyền, bảo vệ  nền độc lập tự  do vừa giành đươc, Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ  thị Kháng chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ  trương kháng chiến kiến quốc của Đảng tiếp tục khẳng định, cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng. Khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”. Đến tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả  thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây ra nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
Trong giai đoạn này, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ  thị Kháng chiến kiến quốc, Đảng đã xác định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ  đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chủ  tịch đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để  làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam. Ngày 19/10/1946, Thường vụ  Trung ương Đảng mở  hội nghị  quân sự  toàn quốc lần thứ  nhất do Tổng bí thư Trường Chinh chủ  trì. Xuất phát từ  nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5/11/1946), Hồ Chủ tịch đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo và công bố  sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi  toàn quốc kháng chiến  của Hồ  Chí Minh (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh. Trong đó khẳng định rõ mục tiêu của đường lối là kế tục và phát triển sự  nghiệp Cách mạng tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”. Về tính chất, “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Phương châm tiến hành kháng chiến là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Đến đầu năm 1951, tình hình thế  giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sunh và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội đại biểu lần thứ hai tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành 3 đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của dân tộc đi tới thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày đã kế  thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội xác định: “Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp”. Về đối tượng cách mạng:  cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng: Đối tượng chính hiện nay  là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ  thể  lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ  thể lúc này là phong kiến phản động. Về nhiệm vụ  cách mạng: “Nhiệm vụ  cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ  nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ  đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược”. Về động lực của cách mạng gồm “công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử  đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức”. Đồng thời Đại hội chỉ rõ, việc “giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, đến Đại hội II của Đảng, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân đã hoàn chỉnh về cơ bản cả mục tiêu, nhiệm vụ và xác định rõ tính chất cũng như tiến trình của nó. Cũng từ thời điểm này, khái niệm “Cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân” lần đầu tiên xuất hiện với đầy đủ nội hàm. Từ đây, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện gắn với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân ta. Qua các hội nghị Trung ương tiếp theo như Hội nghị  lần thứ  nhất (3/1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế  và trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, “củng cố và gia cường quân đội chủ  lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích”; “gia cường việc lãnh đạo kinh tế  tài chính”, “thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp”, “tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới”, “củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức”. 15 chính sách gồm: kháng chiến, chính quyền nhân dân, mặt trận dân tộc thống nhất, văn hóa giáo dục, đối với tôn giáo, chính sách dân tộc, đối với vùng bị tạm chiếm, ngoại giao, đối với Miên Lào, đối với ngoại kiều, đấu tranh cho hòa bình và dân chủ thế giới, thi đua ái quốc. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 27/9 – 5/10/1951) đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt 3 nhiệm vụ lớn là “ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới giành ưu thế quân sự”; “ra sức phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, đẩy mạnh kháng chiến ở  vùng bị  tạm chiếm; “củng cố  và phát triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”. Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 (1/1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân. Đến hội nghị  Trung ương lần thứ  5(11/1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải cách ruộng đất để  đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì làm sau”. “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị  phải thật đầy đủ, kế  hoạch phải thật rõ ràng, lãnh  đạo phải thật chặt chẽ…”.
  Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân được hiện thực hóa và đem lại những kết quả quan trọng. Về  chính trị, Đảng ra hoạt động công khai đã có  điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền 5 cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Về quân sự, đến cuối năm 1952, lực lượng chủ  lực đã có 6 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công binh  –  pháo binh. Thắng lợi của các chiến dịch Trung Du, Đường 18, Hà-Nam-Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào.v.v… đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng Lào.v.v… Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử  6 đại đoàn bộ binh là: 308, 304, 312, 320, 325 và 1 đại đoàn công – pháo binh là 351. Bộ đội tập trung năm 1953 lên đến 33 vạn người. Về ngoại giao, việc hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta thì ngày 27/12/1953, Ban Bí thư ra thông tư nêu rõ: “lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết  kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ  ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề  Việt Nam”. Ngày 8/5/1954, Hội nghị  quốc tế  về chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Genéve (Thụy Sỹ). Ngày 21/7/1954, các văn bản của Hiệp nghị  Genéve về  chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta kết thúc thắng lợi.
Sau Hiệp định Genéve, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp. Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng sau tháng 7/1954 là phải vạch ra được đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ  ra những đặc điểm chủ  yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm 2 miền; từ  nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển đến tập trung.
Hội nghị  lần thứ 7 (3/1955) và Hội nghị  lần thứ 8 (8/1955) nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ. Điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã xác định đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để  thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”.
Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: “Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ  chiến lược đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng quan hệ  hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị  của đế  quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị  của quần chúng là chủ  yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để  đánh đổ quyền thống trị  của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. “tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hòa bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Nghị quyết hội nghị  lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng. Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả  nước, được điều chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 – 10/9/1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, xác định rõ nhiệm vụ chung là “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở  độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”. Về nhiệm vụ chiến lược, Đảng chỉ rõ, “cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có 2 nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”. Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc 2 chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ  thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ  đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả  nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Do cùng thực hiện một mục tiêu nên “hai nhiệm vụ chiến lược này có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ  vai trò quyết định trực tiếp đối với sự  nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân trong cả nước.
Như vậy, đến Đại Hội III của Đảng, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân là một bộ phận trong đường lối cách mạng chung của cả nước, trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả  nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy  động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh của cả nước và sức mạnh của 3 dòng thác cách mạng trên thế giới. Tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh  thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề  không có tiền lệ  trong lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại. Trong đó, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam là cơ sở  để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo quan dân ta đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế  quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn. Đồng thời dùng không quân và hải quân hùng hổ  tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, thực hiện đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các hội nghị  của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ  trương giữ vững và phát triển thế  tiến công mà ta đã giành  được sau cuộc “đồng khởi” năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ  khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa vũ trang của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ  vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị  đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trị. Thực hiện kết hợp đấu tranh quân sự  với đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận). Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, thành thị).
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, hội nghị còn quyết định nhiều vấn đề  quan trọng về  cách mạng miền Nam. Hội nghị  tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.
  Trước hành động gây “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) đã tập trung đánh gái tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước. Về nhận định tình hình và chủ  trương chiến lược, Trung ương Đảng cho rằng cuộc “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu nước trong cả nước, coi chống Mỹ  cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc. Về quyết tâm và mục tiêu chiến lược, Đảng xác định, nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế  quốc Mỹ  trong bất kỳ  tình huống nào, để  bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”. Về phương châm chỉ đạo chiến lược:  tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ  của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả 2 miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Giữ vững và phát triển thế  tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để  vận dụng 3 mũi giáp công”, đánh địch trên cả  3 vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng. Đồng thời, Đảng ta chỉ rõ:  trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì miền Bắc xã hội chủ  nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ  trên đây không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả  nước lúc này là: “Tất cả  để  đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng được đề ra tại các hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện rõ quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Nó cũng thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ 2 chiến lược  cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế. Đồng thời đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong giai đoạn 1954 – 1960, đánh bại chiến lược chiến tranh đơn phương của Mỹ - ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế  tiến công. Trong giai đoạn 1961 – 1965, giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Giai đoạn 1965 – 1968, đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ  của Mỹ  và chư hầu, buộc Mỹ  phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris. Giai đoạn 1969 – 1975 đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền  địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ 1945), 115 năm chống đế quốc thực dân phương Tây (tính từ 1858), quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam; đưa lại độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.  Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. Mở ra kỷ  nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ  nguyên  cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược là đi lên chủ nghĩa xã hội.  Tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau. Góp phần quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam  trên trường quốc tế. Đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bảo vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội. Làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ  trước mắt và lâu dài. Góp phần làm suy yếu chủ  nghĩa đế  quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vưc Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể  tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu đôc lập dân tộc, dân chủ, tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ  trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong  sự  nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi  được ghi vào lịch sử  dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự  toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

KẾT LUẬN
Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân là một bộ phận cơ bản, quan trọng trong đường lối cách mạng Việt Nam, có vai trò định hướng, dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh cách mạng sinh động của cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ sự chủ động, sáng tạo, khoa học trong hoạch định đường lối, chiến lược, sách lược nói chung, xây dựng và hoàn thiện đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân nói riêng. Lịch sử cách mạng nước ta, nhất là lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo và khẳng định giá trị to lớn của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân trong hơn 80 năm qua.
Ngày nay, giá trị của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng ta vẫn còn nguyên giá trị, là ngọn cờ tư tưởng cổ vũ, động viên chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu, làm rõ giá trị, ý nghĩa lịch sử của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân của Đảng ta là nhiệm vụ cần thiết nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho Đảng ta trong hoạch định đường lối, chiến lược, sách lược trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập và phát triển, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đồng thời, mỗi cá nhân, trên từng cương vị, cần xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của bản thân, có tinh thần, thái độ học tập, công tác, lao động đạt hiệu quả cao, góp phần vào nhiệm vụ chung của sự nghiệp cách mạng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét