Ngay
trong bản Hiến pháp năm 1946, Điều 18 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, từ
18 tuổi, không phân biệt gái, trai, đều có quyền bầu cử trừ những người
mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu
cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân
tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử”. Các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992
và 2013 đều khẳng định rõ quyền bầu cử và ứng cử. Điều 27 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện
các quyền này do luật định”.
Trên
thực tế, kể từ khi tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội khóa I (06/01/1946) đến nay,
mọi công dân Việt Nam đủ điều kiện đều có quyền bầu cử và ứng cử và thực hiện
dân hiện dân chủ thật sự, không có chuyện “hình thức” như một số người lu
loa.
Thật ra, không phải trước thềm cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 họ mới lu
loa, mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội, bất mãn đã lu loa từ nhiều kỳ
bầu cử trước đây. Chẳng hạn, trong cuộc bầu đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, đã xuất hiện một “làn sóng”
tự ứng cử của những người tự xưng là “nhà dân chủ”. Họ bị loại qua các vòng
hiệp thương và rêu rao những luận điệu hết sức sai trái, như: Chỉ có những
người “theo phe” Đảng Cộng sản mới có cơ hội ứng cử đại biểu Quốc hội; phải để
các ứng cử viên tự do tranh cử, dựa trên chữ ký của cử tri mà không cần phải
qua hiệp thương; Đảng Cộng sản cố tình “cản trở” người ngoài Đảng tự ứng cử vào
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, v.v...
Họ đã quá sai, Hiến pháp đã hiến định “Đảng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Họ không theo Đảng Cộng sản thì họ theo ai? Đảng
không cản trở bất cứ ai, tôn trọng quyền bầu cử và ứng cử của những người đủ
tiêu chuẩn và điều kiện, không chấp nhận những người không đủ tiêu chuẩn. Từ
trước đến nay vẫn thế. Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 20/6/2020 của Bộ Chính trị nêu
rõ: “Chúng ta kiên quyết không giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn,
nhất là những người sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, chạy chức, chạy
quyền, xu nịnh, kiêu ngạo, quan liêu, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng đến uy tín
của Đảng, Nhà nước”.
Những điều cần biết về quyền bầu cử
Khái niệm quyền bầu cử
Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả
năng của công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan
quyền lực nhà nước. Quyền bầu cử không chỉ là quyền bỏ phiếu, mà còn bao gồm
quyền đề cử. Đây là quyền chính trị quan trọng bảo đảm cho công dân có thể tham
gia vào việc thành lập ra những cơ quan quan trọng nhất của mỗi quốc gia.
Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức
thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng
Nhà nước nói chung và cơ quan đại diện-cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương
đến địa phương ở nước ta nói riêng. Thông qua việc bầu cử này, nhân dân thực
hiện quyền dân chủ bằng cách lựa chọn những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội,
HĐND. Vì vậy, việc lựa chọn những người bảo đảm tiêu chuẩn, xứng đáng đại diện
cho nhân dân tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước là yêu cầu quan trọng
và có ý nghĩa chính trị to lớn.
Đối với mỗi cử tri, việc đi bầu cử là quyền lợi
đồng thời cũng là trách nhiệm của công dân đối với đất nước.
Chủ thể của quyền bầu cử
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, công dân
Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử. Tuy nhiên, không phải mọi công dân
đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử mà có những trường hợp công dân đủ 18
tuổi trở lên không được bầu cử.
Theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND năm 2015, có 4 trường hợp không được bầu cử như sau:
- Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án,
quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Người bị kết án tử hình đang trong thời gian
chờ thi hành án.
- Người đang chấp hành hình phạt tù mà không
được hưởng án treo.
- Người mất năng lực hành vi dân sự.
Trường hợp người đang bị tạm giam, tạm giữ,
người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc có quyền bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi
người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Nguyên tắc bầu cử
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND
được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
- Nguyên tắc phổ thông: Nhà nước phải bảo đảm
để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo
điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính
dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
- Nguyên tắc bình đẳng: Cử tri tham gia bầu cử
có cơ hội tham gia bầu cử như nhau, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Kết quả bầu
chỉ phụ thuộc vào số phiếu bầu. Ngoài ra, nguyên tắc này còn đòi hỏi sự phân bổ
hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu để đại diện cho các vùng, miền,
địa phương, tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số.
- Nguyên tắc trực tiếp: Bầu cử trực tiếp có
nghĩa là cử tri trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu; cử tri trực
tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào.
- Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Nhằm bảo đảm sự tự
do đầy đủ, thể hiện ý chí cử tri, việc bầu cử được tiến hành dưới hình thức bỏ
phiếu kín.
Nguyên tắc bỏ phiếu bầu
Có 8 nguyên tắc khi bỏ phiếu bầu:
1. Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại
biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp HĐND.
2. Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được
nhờ người khác bầu cử thay, trừ trường hợp quy định tại mục (3) và (4); khi bầu
cử phải xuất trình thẻ cử tri.
3. Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì
nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm
bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu
được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
4. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu,
khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ
và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và
thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri đang bị tạm giam, đang chấp hành biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện hoặc đang bị tạm giữ tại
nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam,
nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận
phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
5. Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được
xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
6. Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu
khác.
7. Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách
nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.
8. Mọi người phải tuân theo nội quy phòng bỏ
phiếu.
Thời gian bỏ phiếu
Theo quy định, ngày bầu cử do Quốc hội quyết
định, ngày bầu cử phải là ngày Chủ nhật và được công bố chậm nhất 115 ngày
trước ngày bầu cử.
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu
HĐND nhiệm kỳ 2021-2026 được ấn định là ngày 23-5-2021. Việc bỏ phiếu bắt đầu
từ 7 giờ đến 19 giờ cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết
định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước 5 giờ hoặc kết
thúc muộn hơn nhưng không được quá 21 giờ.
Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt có thể hoãn hoặc
bỏ phiếu sớm hơn theo quyết định của Hội đồng bầu cử Quốc gia./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét