Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Trong những năm đổi mới, Đảng ta
đã có sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của thực
tiễn cách mạng Việt Nam trên một loạt vấn đề lý luận mới, như: về mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Tư duy lý luận của Đảng ngày càng
phát triển và nhận thức sâu sắc hơn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Sự phát triển của thế giới và công
cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải có
nhận thức đúng về bản chất, xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm của quốc
gia dân tộc, trên cơ sở này xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù
hợp. Hiện nay, có nhiều nhân tố mới đang và sẽ tác động đến sự vận động và phát
triển của toàn thế giới và từng quốc gia như: cách mạng khoa học - công nghệ,
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, bước quá độ của nhân loại
từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức... Trong bối cảnh như vậy, để có
chiến lược và chính sách phát triển đúng đắn đòi hỏi phải có nhận thức đúng về
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu tan rã, lịch sử thế giới đang ở trong một "khúc
quanh" phức tạp của sự phát triển, song chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tỏ rõ
sức sống của nó trong đời sống hiện thực, những giá trị tinh thần, tính khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin được thực tiễn khẳng định tính đúng
đắn của nó.
Một học thuyết được thừa nhận là cách
mạng phải xuất phát từ những nhận thức khoa học về thế giới khách quan, tính
khoa học càng cao thì tính cách mạng càng triệt để. Khác về cơ bản so với các
học thuyết khác trên các phương diện về đối tượng, phương pháp nghiên cứu, nội
dung, tính giai cấp... học thuyết của C. Mác, theo V.I. Lênin: "Là sự thừa
kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong
triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội"[1]. Dựa trên những
thành tựu của tư tưởng nhân loại, nhất là của triết học cổ điển Đức, kinh tế
chính trị tư sản cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, áp dụng phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã làm cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong tư tưởng, nhận thức của nhân loại, tạo
nền móng cho lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết do C. Mác và Ph. Ăngghen
sáng lập là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Các ông đã vạch
rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên
những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản. Phù hợp với lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát
triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, C. Mác cho
rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới,
cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
V.I. Lênin đã bảo vệ và phát triển
học thuyết của Mác - Ăngghen, nâng lên trình độ cao mới trong bối cảnh chủ
nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao của nó là chủ nghĩa đế quốc trong
hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Kế thừa học thuyết của C. Mác trong
điều kiện mới, V.I. Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc,
khởi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát hiện quy luật phát
triển không đều của chủ nghĩa tư bản và chỉ ra cho giai cấp công nhân Nga cái
"mắt xích" yếu nhất của nó để tiến hành thành công Cách mạng Tháng
Mười Nga. Người đã xác định kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề ra Chính
sách Kinh tế mới (NEP), phác họa những đường nét cơ bản của sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở những nước kinh tế chậm phát triển.
Để nhận thức được tính khoa học và
cách mạng trong học thuyết của C. Mác, cần phải có quan điểm thực tiễn. Như
V.I. Lênin đã khẳng định, lý luận nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn và trở
về thực tiễn thì lý luận mới mang tính khoa học, khắc phục căn bệnh giáo điều hay
lý luận suông. Theo V.I. Lênin, bản chất và linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là
phân tích cụ thể một tình huống cụ thể.
Bản thân các nhà kinh điển không
coi học thuyết của mình như một cái gì đó hoàn thiện, bất biến, mà luôn đòi hỏi
phải có sự bổ sung, vận dụng phát triển sáng tạo trong những điều kiện lịch sử
cụ thể. Bởi lẽ, chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, do vậy phải căn cứ
vào những điều kiện cụ thể mới có những định hướng giải pháp phù hợp. Các nhà
kinh điển cũng không bao giờ coi học thuyết của mình như là những câu trả lời
vạn năng cho mọi tình huống của cuộc sống, mà đòi hỏi phải luôn được xem xét
gắn với sự phát triển của thực tiễn, với tư cách là động lực của nhận thức, là
tiêu chuẩn khách quan của mọi chân lý.
Trong lời tựa Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản viết cho bản tiếng Đức vào năm 1872, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng
định: "Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ
ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo
hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện
pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về
nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết
sức lớn trong hai mươi lăm năm qua"[2]. Các ông lý giải
lý do không sửa lại là vì: "Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng
tôi không có quyền sửa lại".
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác,
Lê-nin đã xuất phát từ điều kiện cụ thể của nước Nga, với tư cách là mắt xích
yếu nhất của hệ thống đế quốc chủ nghĩa sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất,
để đi đến kết luận khoa học rằng, nước Nga đã hội tụ đầy đủ các điều kiện khách
quan và chủ quan để cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra (điều này trái với
dự báo của Mác và Ăng-ghen là cách mạng vô sản có khả năng nổ ra đồng loạt ở
các nước tư bản phát triển, nơi mà mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản đã đẩy đến
mức độ cùng cực). Cũng do nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác, Lê-nin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới mùa xuân năm 1921 thay cho Chính
sách Cộng sản thời chiến được áp dụng trong điều kiện nước Nga bị bao vây bởi
các nước đế quốc và nội chiến trong nước. Nhờ có Chính sách Kinh tế mới mà nước
Nga đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, tạo tiền đề quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
Thực chất của Chính sách Kinh tế
mới là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với thừa nhận sự tồn tại của nền
kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ, kinh tế thị
trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và
nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương
thực, chú trọng khuyến khích lợi ích vật chất coi đó là động lực quan trọng để
phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ở đây
dường như có mâu thuẫn về quan niệm của Mác và Ăng-ghen khi cho rằng, chủ nghĩa
cộng sản xóa bỏ buôn bán, cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất
thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ.
Thực ra phải hiểu điều kiện lịch sử
cụ thể của những quan điểm của các nhà kinh điển, điều khẳng định ở trên của
Mác và Ăngghen là những dự đoán về giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chứ
không phải nói về giai đoạn thấp của nó, tức là chủ nghĩa xã hội. Điều này Mác
đã khẳng định: Đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do
đó là một xã hội về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang
những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra,.. Như vậy làm sao xóa ngay
được cái dấu vết đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa. Các nhà
kinh điển đã chỉ ra một cách đúng đắn về mặt phương pháp luận khi cho rằng cơ
sở để xóa bỏ chế độ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một
trình độ nhất định với trình độ xã hội hóa cao, chứ không phải chỉ bằng quyết
định mệnh lệnh hành chính hay mong muốn chủ quan.
Trong tác phẩm "Những nguyên
lý của chủ nghĩa cộng sản" viết năm 1847, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ rằng, chủ
nghĩa cộng sản là đối lập với chế độ tư hữu, và sẽ có lý khi các đảng cộng sản
đều khẳng định mục tiêu của mình là xóa bỏ chế độ tư hữu. Tuy nhiên, khi được
hỏi có nên xóa bỏ chế độ tư hữu ngay hay không sau khi cách mạng vô sản thành
công, Ph. Ăngghen đã trả lời dứt khoát rằng: Không, không và không thể thủ tiêu
chế độ tư hữu ngay lập tức, "cũng y như không thể làm cho lực lượng sản
xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh
tế công hữu. Cho nên..., chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần,
và "chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết
cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu"[3].
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ, để
thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường và như vậy phải trải qua chế độ tư hữu trong một
thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng của sự phát triển, chính
vì không nhận thức và vận dụng được quy luật này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu trước đây đã không thực hiện đúng đường lối của V.I. Lênin
trong Chính sách Kinh tế mới, chủ trương nhanh chóng xóa bỏ chế độ tư hữu,
không thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, không phát triển quan hệ
hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa
theo hướng nội là chủ yếu, không tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc
tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế.
Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăng-ghen mới
chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội cộng sản thông qua sự phân tích hiện
thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi các đảng cộng sản phải vận dụng
phát triển sáng tạo học thuyết của Mác, Ăngghen trong điều kiện cụ thể của nước
mình. Chính V.I. Lênin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: "Chúng
ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội
dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã
thu được"[4].
Để nắm vững bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác phải thấm nhuần rằng, chủ nghĩa Mác không phải là
một giáo điều chết, một học thuyết đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất
di bất dịch nào đó, mà là một kim chỉ nam sống cho hành động, chính vì thế nên
nó không thể không phản ánh sự biến đổi đặc biệt nhanh chóng của điều kiện xã
hội.
Trong việc vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cần tránh khắc
phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả khuynh làm cho học thuyết tư
tưởng của các nhà kinh điển bị méo mó. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô và thực tiễn Việt Nam thời kỳ trước đổi
mới đã cho thấy rõ điều đó. Cuộc sống cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội cũ với
tính kế hoạch hóa tập trung cao độ, tập trung đẩy mạnh cải tạo, phát triển quan
hệ sản xuất mà không chú trọng đầy đủ đến vai trò của lực lượng sản xuất, cũng
như phát triển nó, coi nhẹ yếu tố khuyến khích vật chất gắn với sử dụng quan hệ
hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị trường đã làm cho mô hình này không có sức
sống và lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Những kết quả của quá trình cải
cách ở Trung Quốc gần 30 năm qua gắn với chủ trương Trung Quốc hóa chủ nghĩa
Mác, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện Trung Quốc; cho rằng những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác có tính phổ biến, còn đối tượng vận dụng chủ nghĩa Mác có
tính đặc thù, đặc tính riêng, nếu xa rời tình hình cụ thể của Trung Quốc và đặc
tính của thời đại thì chủ nghĩa Mác không thể phát huy tác dụng. Muốn thực hiện
Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, thì không những phải nghiên cứu phân tích một
cách khoa học tình hình Trung Quốc, mà còn phải nắm bắt chính xác nhịp đập thời
đại và đặc trưng thời đại mà chúng ta đang sống. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc
cho rằng, các bậc tiền bối đều là những người của xã hội, đều ở trong một hoàn
cảnh lịch sử nhất định, sự từng trải thực tiễn và nhận thức của họ đều chịu hạn
chế của lịch sử nên đều mang dấu ấn của thời đại đó, tính dự đoán của họ cũng
chỉ có thể lấy điều kiện thời đại đương thời để làm căn cứ, không thể vượt qua
không gian lịch sử đang sống để giải quyết mọi vấn đề có thể nảy sinh trong
lịch sử sau đó hàng thế kỷ.
Nguyên tắc trong thúc đẩy Trung
Quốc hóa chủ nghĩa Mác là phải vừa có sự kế thừa, vừa có sự đổi mới, trong quá
trình cải cách, thực tiễn mới sẽ nảy sinh vấn đề mới, việc giải quyết vấn đề
mới hình thành lý luận mới, qua đó không ngừng phát triển chủ nghĩa Mác. Chủ
nghĩa Mác vốn không phải là một giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động, đòi
hỏi phải căn cứ vào những nguyên tắc, phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác,
không ngừng kết hợp với thực tiễn đang thay đổi, biến hóa, từ đó tìm ra lời
giải đáp để giải quyết vấn đề mới, qua đó phát triển bản thân lý luận chủ nghĩa
Mác. Do vậy, phủ nhận tính khoa học của chủ nghĩa Mác là sai lầm, là có hại,
nhìn nhận chủ nghĩa Mác theo kiểu giáo điều cũng là sai lầm, có hại. Phải đột
phá trong lý luận của những người đi trước, kế thừa phát triển lý luận đó trong
điều kiện mới.
Ở Việt Nam, qua 35 năm đổi mới,
Đảng ta vẫn khẳng định, “kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
“Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”[5]. Thực tế đất
nước cho thấy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề
có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định thành tựu và
cách làm trước đây, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng làm đúng, loại bỏ
những gì hiểu sai làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không còn phù
hợp, bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách
mạng. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm cho chủ nghĩa
xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, được xây dựng hiệu quả hơn. Đây là quá
trình không phải xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là
nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó. Nắm
vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy đó làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, dùng lý luận tư tưởng đó
làm cơ sở quan trọng để đánh giá tình hình, với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định đường lối
đổi mới thì cách mạng sẽ không ngừng phát triển và đi tới thắng lợi.
NXT-H1
[1] .I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t 23, tr 49 - 50
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 18, tr 128
[3]
C. Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t 4, tr 469
[4]
V.I. Lê-nin: Sđd, t36, tr 334
[5]
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét