Xây
dựng Quân đội nhân dân đội “tinh, gọn, mạnh” là yêu cầu tất yếu khách quan
trong quá trình xây dựng và phát triển, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện
đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, bảo đảm cho quân đội ngày càng vững mạnh về mọi
mặt, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời bình, sẵn sàng mở rộng lực lượng khi có
yêu cầu, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Dự
báo, những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
tình hình thế giới, khu vực, nhất là trên Biển Đông diễn biến phức tạp, khó dự
báo. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm,
các cường quốc vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Kinh tế
thế giới đứng trước nguy cơ khủng hoảng kéo dài do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch
Covid-19.
Nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra những yêu cầu rất cao, nhất là bảo
vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới đất liền, ứng phó với các thách thức an ninh
phi truyền thống mới, tham gia các hoạt động cứu hộ, cứu nạn... đòi hỏi QĐND Việt
Nam phải được tổ chức hợp lý với vũ khí, trang bị ngày càng hiện đại, tiên tiến,
tiến hành bằng phương thức tác chiến phù hợp; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc, phù hợp với điều kiện của đất nước trong thời bình, sẵn sàng phát triển
khi có chiến tranh.
Vì
vậy, tổ chức lực lượng quân đội tinh, gọn, mạnh, được trang bị tốt, hỏa lực mạnh,
có tính cơ động cao, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống;
nhỏ mà không yếu, ít mà địch được nhiều, thắng được hiện đại là nhiệm vụ quan
trọng được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo, nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu
(SSCĐ) và chiến thắng của quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong
tình hình mới.
Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: Xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng
lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền
đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
hiện đại... Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025
đề ra mục tiêu: Đến năm 2025 cơ bản hoàn thành việc điều chỉnh tổ chức biên chế;
đến năm 2030 một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại, phấn đấu từ năm
2030 xây dựng quân đội hiện đại, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng
nền quốc phòng toàn dân...
Nhận
thức sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng quân đội, Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã tổ chức quán
triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc về đổi mới, sắp xếp điều chỉnh tổ chức
quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của Bộ Quốc phòng; tổ chức, sắp xếp bộ máy quân đội được điều chỉnh phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tổ chức biên chế
của các cơ quan, đơn vị bước đầu bảo đảm sự cân đối, đồng bộ giữa các quân chủng,
binh chủng; giữa cơ quan và đơn vị; giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự
bị động viên; giữa lực lượng phục vụ bảo đảm với lực lượng huấn luyện, SSCĐ.
Tập
trung ưu tiên thành lập, nâng cấp một số đơn vị huấn luyện, SSCĐ, lực lượng đặc
thù và điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên các vùng, miền, phù hợp với sự
phát triển, với các nhiệm vụ mới. Kiên quyết điều chỉnh tổ chức biên chế đối với
cơ quan các cấp, nhất là cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược bảo đảm chặt chẽ,
theo hướng giảm các tổ chức trung gian; sáp nhập các cơ quan tương đồng về chức
năng, nhiệm vụ và từng bước khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Hệ
thống nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu, các cơ sở sản xuất, đoàn kinh tế-quốc
phòng được điều chỉnh một bước về cơ cấu tổ chức, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu
nhiệm vụ của quân đội, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giảm biên chế, quân
số cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch và một số cơ quan, đơn vị, lực lượng phục
vụ bảo đảm để tập trung quân số cho các đơn vị huấn luyện, SSCĐ.
Lực
lượng dự bị động viên được tổ chức, sắp xếp bảo đảm khả năng mở rộng lực lượng
thời chiến theo Quyết tâm A, từng bước nâng cao chất lượng các đơn vị dự bị động
viên; gắn địa bàn động viên với địa bàn tuyển quân.
Thực
hiện Đề án cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp quân đội;
tiến hành sắp xếp lại và cổ phần hóa các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước do Bộ
Quốc phòng quản lý; giải thể, điều chuyển nhiệm vụ quân sự của các doanh nghiệp
theo yêu cầu nhiệm vụ.
Quá
trình điều chỉnh tổ chức lực lượng quân đội tuy phải thành lập mới một số cơ
quan, đơn vị theo yêu cầu, nhiệm vụ, song Bộ Quốc phòng đã nghiêm túc thực hiện
tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, bảo đảm không tăng quân
số. Đến nay, tổ chức QĐND Việt Nam được điều chỉnh hợp lý giữa các lực lượng,
theo hướng “tinh, gọn, mạnh, cơ động nhanh, sức chiến đấu cao”, sẵn sàng đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Việc
điều chỉnh tổ chức quân đội là một vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến tổ chức,
con người, nhất là tại các đơn vị giải thể, sáp nhập, chuyển đổi mô hình hoạt động;
liên quan đến chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhân viên. Bên cạnh đó, mỗi cơ
quan, đơn vị có chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm khác nhau; nhiều ngành chuyên môn
đặc thù quân sự.
Do
sắp xếp, điều chỉnh về tổ chức biên chế nên sẽ có một lực lượng dôi dư phải giải
quyết chính sách, đòi hỏi một lượng ngân sách không nhỏ để đào tạo lại đội ngũ
cán bộ, nhân viên; ngân sách bảo đảm giải quyết chế độ, chính sách cho đối tượng
nghỉ hưu, phục viên, thôi việc, chuyển ngành...
Trong
thời gian tới, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một
là, tập trung quán triệt, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ,
nhân viên, chiến sĩ về vị trí, vai trò của việc điều chỉnh tổ chức, biên chế
trong quân đội nhằm thống nhất nhận thức, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực
hiện; trọng tâm là quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả các nghị
quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, các quyết định, kế hoạch
của Bộ Quốc phòng về xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh.
Hai
là, tiếp tục rà soát về tổ chức biên chế, quân số, trang bị của từng cơ quan,
đơn vị, làm cơ sở điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong điều kiện mới. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm khách quan,
toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu
cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và từng lực lượng.
Ba
là, phát huy vai trò của cấp ủy, người chỉ huy các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ
quan tham mưu cấp chiến lược, chiến dịch trong nghiên cứu, dự báo chính xác
tình hình thế giới, khu vực, trong nước và nhiệm vụ của quân đội, làm cơ sở
tham mưu, đề xuất, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện bảo đảm đúng, trúng, phù hợp với
yêu cầu phát triển của thực tiễn xây dựng quân đội. Các cơ quan, đơn vị cần tập
trung xây dựng kế hoạch, chương trình hành động bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, khoa
học, phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ được giao. Quá trình thực hiện
phải gắn công tác tư tưởng với công tác tổ chức, công tác cán bộ; thực hiện tốt
chính sách với quân số dư dôi biên chế, tạo sự đồng thuận cao trong tổ chức thực
hiện.
Bốn
là, phải gắn xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện,
đào tạo; gắn trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy, cán bộ với kết quả huấn luyện,
đào tạo của đơn vị; quá trình huấn luyện, đào tạo cần kết hợp chặt chẽ giữa cán
bộ chỉ huy, cơ quan và đơn vị; tăng cường huấn luyện, đào tạo dã ngoại, huấn
luyện ban đêm, rèn luyện sức bền; đưa bộ đội sát với thực tế chiến đấu thông
qua các hoạt động, nhất là hành quân xa mang vác nặng, vượt địa hình phức tạp;
nâng cao khả năng cơ động, phòng tránh, đánh trả sát với tình huống chiến đấu;
diễn tập bắn đạn thật ở các cấp, diễn tập hiệp đồng quân binh chủng gắn với tác
chiến khu vực phòng thủ, biển, đảo... trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công
nghệ cao.
Đối
với đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, bảo đảm đủ về số lượng theo
biên chế quân số các thành phần; được đào tạo cơ bản về lý thuyết gắn với thực
tiễn đơn vị, có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công tác chuyên môn theo chức
trách; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi; được huấn luyện, đào tạo, rèn luyện
kỹ năng kỹ chiến thuật trong môi trường chiến tranh vũ khí công nghệ cao; làm
chủ vũ khí trang bị hiện có và vũ khí hiện đại mới được biên chế.
Năm
là, tiếp tục triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch về tổ chức xây dựng lực
lượng QĐND Việt Nam; xây dựng và ban hành thông tư quy định về chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các cơ quan, đơn vị và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Sáu
là, tiếp tục tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước đầu tư mua sắm vũ khí, trang
bị mới, hiện đại cho quân đội; tập trung mua sắm có chọn lọc, ưu tiên cho một số
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đồng thời phải phấn đấu tự chủ, tự cường
trong nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị hiện đại, gắn với đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao để quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các loại vũ
khí, trang bị kỹ thuật hiện đại.
Việc
xây dựng Quân đội nhân dân “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương
đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, phù hợp với yêu cầu xây dựng QĐND trong tình
hình mới. Do vậy, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng,
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, là cơ sở quan trọng để xây dựng Quân đội ta
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc./.
LXD-H3
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét