Với truyền thống
yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc,
lớp lớp thế hệ đã lên đường, chung sức, đồng lòng với tinh thần “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Trong số đó, đã có rất nhiều người đã hi sinh cả mạng sống của
mình, hoặc một phần cơ thể cho sự nghiệp độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Là
người đứng đầu đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu những mất mát lớn lao
này. Người luôn dành tình cảm đặc biệt với thương binh, liệt sĩ và gia đình có
công với Tổ quốc. Suốt 24 năm trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Bác Hồ đã
cùng Chính phủ thể chế hóa thành văn bản pháp quy của Nhà nước đối với thương
binh, liệt sỹ, phù hợp với truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam và điều
kiện, hoàn cảnh của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. Trong thực tiễn,
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, tấm gương sáng của tư tưởng nhân văn cao đẹp
đó.
Cách mạng Tháng
Tám thành công, đất nước ta phải sống trong cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”,
nhưng Bác luôn nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sỹ. Trong bức thư đăng
trên báo Cứu quốc ngày 7-1-1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể
đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do,
độc lập, thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời
kỳ kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sỹ và tôi nhận
các con liệt sỹ làm con nuôi của tôi ”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
dù còn bộn bề với bao công việc của một nước Việt Nam non trẻ, nhưng Người đã gửi
thư tới đồng bào Nam bộ, trong thư có đoạn viết: Tôi kính cẩn cúi chào vong
linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu
tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng. Sau đó, trong Thư gửi đồng
bào Việt Nam, Người lại viết: Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và
đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng.
Tháng 6-1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương binh, liệt
sĩ” để nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, biết ơn đối với thương binh, gia
đình liệt sĩ và những người có công với đất nước. Thực hiện chỉ thị của
Người, hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khối
và tỉnh họp ở xã Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí, đề nghị lấy
ngày 27-7-1947 làm “Ngày Thương binh, liệt sĩ” trong cả nước.
Ghi nhận, và
đánh giá cao sự hy sinh và cống hiến của các thương binh, liệt sĩ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe doạ
tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm
đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu
quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp
thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập
Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh
của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản
đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là
những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở
trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử
sĩ”. Người nêu rõ: “Máu đào của các thương binh, liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách
mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước
ta nở hoa độc lập, kết trái tự do”. Cảm thông với những thiệt thòi của thương
binh, liệt sĩ và gia đình họ trong cuộc sống hoà bình, Bác đã kêu gọi đồng bào
chia sẻ với những tâm tư, mất mát lớn của thương binh, liệt sĩ. Người nói: Cách
mấy ngày trước, họ là những thanh niên lành mạnh, vui vẻ, oanh liệt. Trải qua
những ngày ăn gió nằm sương, những trận mưa bom, bão đạn, họ bị tay què, chân cụt,
họ hoá ra thương binh. Người từng khẳng định: Thương binh, bệnh binh, gia đình
quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người đã có công với Tổ quốc, với nhân
dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ
họ. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta bất kể trong hoàn cảnh nào cũng
phải luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh, liệt sỹ, những
người đã hy sinh tính mệnh hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình trên chiến
trường vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của
nhân dân. Người căn dặn: “Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những
người con anh hùng ấy, mọi người phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của
các anh hùng liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp
cách mạng mà các liệt sĩ đã để lại cho chúng ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có nhiều sáng kiến
phát động các phong trào nhân dân giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Năm
1948, Người gửi thư cho các cháu nhi đồng phát động phong trào công tác Trần Quốc
Toản nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ. Năm 1951,
Người phát động phong trào “Đón thương binh về làng” để Đảng, chính quyền, đoàn
thể và nhân dân các làng, xã giúp đỡ thương binh những công việc phù hợp để họ
có thể tự tin sinh sống, hoà nhập với cộng đồng. Dù bận nhiều công việc, nhưng
hầu như năm nào Người cũng gửi thư, tặng quà hoặc tới thăm thương binh và gia
đình liệt sĩ. Không chỉ dừng lại ở những lời kêu gọi mộc mạc, chân thành, giản
dị, xúc động lòng người mà tình cảm bao dung, che chở của Người còn thể hiện bằng
những hành động cụ thể hằng ngày. Bác trích một phần lương của mình, các món
quà của đồng bào kính tặng, để tặng cho các đồng chí thương binh.
Bác cũng luôn động
viên anh chị em thương binh phấn đấu trở thành những người “tàn nhưng không phế”,
hăng hái, lạc quan đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người dặn: “Khi đã khôi phục sức khỏe, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công
tác tăng gia sản xuất, để giúp ích cho Tổ quốc, cũng như các đồng chí đã anh
dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu
phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận.
Tôi cùng đồng bào luôn luôn nhớ đến các đồng chí”. Đồng thời, Bác chỉ ra những
công việc thật cụ thể, phù hợp để anh em thương binh sẽ tuỳ sức mà làm những
công việc nhẹ, như học may, đan lát, hớt tóc hoặc giúp việc phòng giấy, việc
bình dân học vụ trong làng…
Trong “Thư gửi
Ban Tổ chức Trung ương ngày thương binh liệt sĩ” viết ngày 27 tháng 7 năm 1950,
Người viết “Càng tưởng nhớ đến những người con dũng cảm của Tổ quốc, thì mọi
người càng phải thêm hăng hái thi đua làm trọn nhiệm vụ tổng động viên, để chuẩn
bị đầy đủ, để chuyển mạnh sang tổng phản công, để tranh lại độc lập và thống nhất
cho Tổ quốc”.
Những hành động
của Bác không chỉ là sự tiếc thương mà còn thể hiện sự tự hào, gợi lên tinh thần
bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người đã
hy sinh sự sống của mình cho độc lập của Tổ quốc. Người đã gắn sự tổn thất lớn
lao của những thương binh, liệt sĩ vào ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của những
người được sống trong hòa bình hôm nay. Trước lúc đi xa, Bác đã để lại cho toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta Bản Di chúc lịch sử, trong đó có phần viết về
chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và những người đã kinh
qua chiến đấu. Bác viết: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần
xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung
phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn
ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có
thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Ngày nay, được
sống trong cảnh đất nước thanh bình, chúng ta càng nhớ tới công lao và sự hy
sinh to lớn của các thương binh, liệt sĩ. Thực hiện tư tưởng của chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách với thương
binh, liệt sĩ cùng những gia đình người có công với cách mạng. Điều này không
chỉ góp phần ổn định và nâng cao mức sống của thương, bệnh binh, gia đình liệt
sĩ mà còn góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; có tác dụng giáo dục toàn dân, đặc biệt là thế
hệ trẻ về lòng yêu nước, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của
dân tộc ta; củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, nhà nước trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
NXT-H1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét