Trần Thị Kim Cúc
sinh năm 1936, tại vùng quê nghèo xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang (Đà Nẵng). Bà
làm giao liên cho huyện ủy Hòa Vang từ năm 14 tuổi. Năm 1961, bà được tổ chức
phân công làm đội trưởng đội công tác đặc biệt, có nhiệm vụ thăm dò tình hình địch,
đưa thông tin liên lạc cho cách mạng. 4 năm sau, bà vinh dự được đứng vào hàng
ngũ của Đảng. Dũng cảm, mưu trí, gan dạ, bà đã tham gia nhiều trận đánh “tìm Mỹ
mà diệt” làm nức lòng đồng bào và chiến sĩ. Nhiều lần bị địch bắt, tra tấn cực
kỳ tàn độc nhưng bà vẫn kiên cường giữ vững khí tiết của người cộng sản. Ra tù,
được tổ chức bí mật đưa ra Bắc chữa bệnh, bà vinh dự 8 lần được gặp Bác Hồ.
Bà Cúc bồi hồi nhớ
lại: “Một buổi chiều giữa năm 1966, tôi và chị Mười quê ở Mỹ Tho, Tiền Giang nằm
điều trị chung một phòng ở Bệnh viện Việt - Xô, được thông báo sắp có người
trong Phủ Chủ tịch đến thăm. Tối đó, một chiếc ô tô con đỗ trước hiên Khoa A1.
Một ông già dáng dong dỏng, râu tóc bạc, nét mặt đôn hậu, mặc bộ bà ba màu nâu
sẫm, chân đi dép cao su và một người trẻ tuổi hơn (về sau tôi mới biết là chú
Vũ Kỳ, thư ký của Bác), nhanh nhẹn đi về phía buồng bệnh. Tôi hồi hộp nói với
chị Mười: “Đúng là Bác rồi, chị ơi!”. Chúng tôi định chạy ra, thấy thế Bác liền
vẫy tay, bảo: “Hai cháu đừng chạy, ngã đấy!” rồi đưa hai tay đỡ chúng tôi. Tôi
ôm lấy Bác mà nước mắt cứ trào ra. Ước mơ cháy bỏng ấp ủ bấy lâu, bây giờ đã
thành hiện thực!
Chú Trịnh Kim Ảnh,
Giám đốc Bệnh viện thưa với Bác: “Cô Cúc ngoài các vết thương trong người còn
có 2 vết thương rất nặng: Vết thương ở đầu do bọn địch đóng đinh vào gây chấn
thương não, để lại di chứng động kinh kéo dài. Vết thương thứ 2 ở cửa mình vẫn
ra máu do mảnh vụn đèn neon địch tra tấn”. Nghe vậy, mắt Bác ngấn lệ. Người đưa
tay sờ lên vết thương trên đầu tôi, lo lắng hỏi: “Đau thế, đêm cháu ngủ có được
không? Cháu ăn có biết ngon miệng không?” Tôi liền thưa: “Dạ thưa Bác! con ăn
và ngủ cũng được ít”. Bác đưa tay vẫy anh Bình, Chủ nhiệm khoa A1 lại gần, căn
dặn: “Chú phải theo dõi cả việc ăn uống của các cháu, nhắc nhà bếp phải thường
xuyên đổi món và chế biến thức ăn cho hợp khẩu vị. Ở miền trong thường thích
món cá nấu chua lắm!”.
Sau lần đó, tôi và
chị Mười còn nhiều lần được đón vào Phủ Chủ tịch cùng ăn cơm với Bác và chú Tô
(tức Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tình cảm của Bác dành cho chúng tôi sâu nặng, ấp
áp như tình thương của người cha vậy. Biết bệnh của chúng tôi không thuyên giảm,
Bác quyết định đưa sang Trung Quốc chữa trị và động viên 2 chị em cố gắng học
tiếng nước bạn, để nếu có nhà báo đến thì kể cho họ nghe về tội ác của đế quốc
Mỹ và ý chí chiến đấu kiên cường của đồng bào ta. Khắc ghi lời Bác, tôi vừa chiến
đấu với bệnh tật vừa nỗ lực học hỏi, luyện cách giao tiếp bằng tiếng Trung.
Sau gần 2 năm, các
vết thương được chữa lành, trở về Hà Nội, tôi được Bác cho xe đón vào Phủ Chủ tịch.
Đó là buổi chiều 30 tết Mậu Thân 1968, tiết trời se lạnh, Bác bảo chú Vũ Kỳ đưa
ra một cái khăn và chiếc mũ ấm bảo tôi mang vào kẻo lạnh (Chiếc khăn này tôi đã
tặng lại Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Quân khu 5). Rồi Bác ân cần hỏi thăm
sức khỏe, và bất ngờ hỏi bằng tiếng Trung: “Cháu đã học được tiếng nước bạn đến
đâu rồi? Bác hỏi một câu, cháu trả lời Bác nghe thử”. Tôi lúng túng thưa với
Bác cũng bằng tiếng Trung, Bác khen và dặn: “Có chí, ở hoàn cảnh nào học cũng
được, cháu ạ!”. Tôi trình bày nguyện vọng muốn được trở về miền Nam đánh giặc,
mắt Bác rưng rưng. Bác bảo hãy cố gắng giữ gìn sức khỏe, vì người còn yếu thế
chưa về được đâu”.
Sau đó, Trần Thị
Kim Cúc học văn hoá tại Trường phổ thông lao động Trung ương, đầu năm 1969, được
Đài Tiếng nói Việt Nam nêu gương về thành tích học tập. Bà kể: “Nhận được tin ấy,
Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đến trường đón tôi. Bác ôm chầm lấy tôi như một người
cha đón đứa con sau bao ngày xa cách. Tình cảm của Bác vẫn nồng ấm, nhưng cử chỉ
và giọng nói đã yếu đi nhiều. Bác dặn chú Tô bằng giọng khàn khàn: “Sau này,
tôi có mệnh hệ gì, không chăm lo được cho cháu Trần Thị Cúc và cháu Trần Thị Lý
(Anh hùng LLVTND, quê Điện Quang, Điện Bàn, Quảng Nam) thì nhờ chú thay tôi
chăm lo cho hai cháu đến nơi đến chốn”.
Đến chiều, chú Vũ Kỳ
đưa tôi trở lại trường, Bác lấy tay xoa nhẹ lên đầu tôi và bảo: “Cháu về trường,
nhớ giữ gìn sức khỏe, Bác gửi lời thăm thầy cô, bạn bè của cháu!”. Nghe thế,
tôi cắn môi lại cố không để bật ra tiếng khóc, lòng thầm ao ước: “Cầu mong Bác
mạnh khỏe, bình an”. Nào ngờ đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp Bác. Ngày
2-9 năm ấy Bác đã đi xa mãi mãi”.
Sau này, bà Cúc thi
đỗ vào Khoa Hóa Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, học đến năm thứ tư thì vết
thương tái phát, đôi mắt không nhìn được, phải sang chữa trị tại Cộng hoà Dân
chủ Đức. Mãi đến sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà mới được trở về quê
hương. Các con của bà đều đã trưởng thành, trong đó 2 người con trai đang công
tác trong quân đội. Bà bảo: “Tôi thường kể cho các con nghe kỷ niệm về những lần
được gặp Bác Hồ. Đó chính là hành trang để các cháu trọn đời vững bước đi theo
con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn”./.
NTH-H4
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét