Pages - Menu

Thứ Tư, 16 tháng 2, 2022

TÁC ĐỘNG CỦA VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO ĐẾN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Vũ khí công nghệ cao là hệ quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự. Nó được đánh giá bằng hàm lượng giá trị công nghệ chứa trong vũ khí đó. Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) thì vũ khí công nghệ cao hiện nay gồm 8 loại chủ yếu, đó là: vũ khí điều khiển chính xác thế hệ mới, vũ khí tàng hình, vũ khí tác chiến điện tử, vũ khí năng lượng định hướng (vũ khí la-de, vũ khí chùm hạt…), vũ khí vi-ba, pháo điện từ, vũ khí thông minh và vũ khí vũ trụ. Về lý thuyết sản xuất cũng như thực tiễn sử dụng đều cho thấy, nhiều loại vũ khí công nghệ cao có ưu điểm nổi bật là: khả năng tự điều khiển, tự nhận biết mục tiêu, khả năng tự loại bỏ nhiều yếu tố khí tượng, đặc biệt là khả năng tiến công từ xa, độ chính xác và khả năng sát thương “mềm”, sát thương “cứng”. Nói cách khác, vũ khí công nghệ cao là vũ khí thế hệ mới, có sự vượt trội về tính năng kỹ thuật, chiến thuật so với hệ vũ khí thông thường.

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “nghiên cứu sản xuất vũ khí công nghệ cao; tăng cường tiềm lực, tận dụng và đẩy mạnh phát triển hên kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh”[1].

Các nhà lý luận quân sự mácxít từng chỉ ra, vũ khí, kỹ thuật chiến đấu mới ra đời và việc chúng được trang bị với số lượng lớn cho quân đội bao giờ cũng dẫn đến những biến đổi lớn về tổ chức bộ đội và nghệ thuật quân sự. Ph. Ăngghen viết: Sự tiến bộ về kỹ thuật, một khi đã có thể áp dụng được và được áp dụng vào trong lĩnh vực quân sự, thì lập tức và hầu như cưỡng bức, thường thường là ngược lại với ý muốn của cấp chỉ huy phải có những sự thay đổi, thậm chí những sự đảo lộn cả về phương pháp tác chiến.

Thật vậy, sự ra đời của vũ khí công nghệ cao và việc chúng được sử dụng ngày càng phổ biến trong một số cuộc chiến tranh gần đây cho thấy, vũ khí công nghệ cao đã có sự tác động sâu sắc đến những vấn đề lý luận và thực tiễn quân sự. Cụ thể, một số mặt tác động chủ yếu như sau:

Một là, vũ khí công nghệ cao tác động đến phương thức tiến hành chiến tranh xâm lược  

Phương thức tiến hành chiến tranh của các nước đế quốc trong các cuộc chiến tranh trước đây là đưa quân đội đến xâm lược một nước khác. Ngày nay, về cơ bản vẫn vậy, song cùng với đó, cũng xuất hiện một khả năng mới về phương thức tiến hành chiến tranh do sự tác động của vũ khí công nghệ cao. Với việc trang bị vũ khí công nghệ cao, kẻ xâm lược hoàn toàn có thể tiến công quân sự một nước khác mà không cần đưa quân vào nước đó, thậm chí không cần đưa bộ binh ra khỏi lãnh thổ của mình mà vẫn đạt được mục đích của cuộc chiến tranh. Một khái niệm chiến tranh mới ra đời, đó là “chiến tranh trừng phạt”, “chiến tranh xâm lược mềm”. Cuộc chiến tranh do Mỹ và các nước NATO thực hiện đối với Nam Tư năm 1999 là một ví dụ phản ánh một phần kiểu chiến tranh như thế. Quân đội các nước này không cần đưa quân vào lãnh thổ Nam Tư, không vận dụng các hình thức tác chiến trên bộ nhưng vẫn cơ bản đạt được mục tiêu đề ra (phá hủy cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, quốc phòng của Nam Tư, buộc chính phủ mới giao nộp Tổng thống Mi-lô-xê-vích cho tòa án La-hay, thực hiện sự có mặt của lực lượng quân sự của Mỹ và NATO ở Cô-xô-vô, tạo cơ sở để chi phối tình hình Ban-căng có lợi cho Mỹ).

Hai là, vũ khí công nghệ cao làm thay đổi không gian và thời gian tác chiến

Trong phần lớn các cuộc chiến tranh trước đây thì quá trình tác chiến thường có chiến tuyến rõ ràng giữa hai lực lượng quân sự đối địch. Mỗi bên tham chiến đều có sự phân biệt giữa tiền tuyến với hậu phương. Ngày nay, vũ khí công nghệ cao với tính ưu việt của nó đã cho phép đối tượng sử dụng có thể mở rộng không hạn chế không gian tác chiến, cả trên bộ, trên biển, trên không và trong vũ trụ, trong điện từ trường. Do vậy, sự phân biệt tiền tuyến và hậu phương chỉ còn là tương đối, ranh giới giữa chúng ngày càng mờ nhạt.

Nếu như không gian tác chiến được mở rộng, thì ngược lại, vũ khí công nghệ cao lại khiến cho thời gian tác chiến giảm hẳn, tiến dần tới tác chiến theo thời gian thực; và do đó, độ dài về thời gian của một chiến dịch hay một cuộc chiến tranh có xu hướng rút ngắn xuống nhiều lần so với trước đây. Ví dụ: chiến dịch “Con cáo sa mạc” do Mỹ - Anh tiến hành ở Irắc năm 1998 chỉ kéo dài 73 giờ; cuộc chiến tranh do Mỹ và NATO tiến hành ở Nam Tư năm 1999 chỉ dừng lại ở một chiến dịch duy nhất, mang tên “Sức mạnh đồng minh”, diễn ra trong 78 ngày; cuộc chiến tranh do Mỹ và một số đồng minh của Mỹ tiến hành ở Irắc năm 2003 chỉ kéo dài 21 ngày. Trong khi đó, các cuộc chiến tranh chủ yếu sử dụng vũ khí thông thường trước kia thường kéo dài hàng năm, thậm chí hàng thập kỷ; chẳng hạn, cuộc chiến tranh Triều Tiên kéo dài 3 năm, cuộc chiến tranh do Mỹ xâm lược Việt Nam kéo dài tới 21 năm. Tương tự, thời gian của các chiến dịch quân sự cũng vậy, ví dụ: chiến dịch I-a-đrăng của Mỹ (ta cũng mở chiến dịch-chiến dịch Plây-me) là chiến dịch có quy mô không lớn nhưng cũng kéo dài 38 ngày; cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty (thực chất là một chiến dịch của Mỹ - ngụy; về phía ta là chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty của Mỹ) kéo dài 52 ngày,... Tuy nhiên, đó chỉ là cách so sánh tương đối vì thời gian của các trận chiến đấu, các chiến dịch hay cả một cuộc chiến tranh, ngoài yếu tố tác động của vũ khí, trang bị kỹ thuật còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa./.

Hồ Dung - KNN-TV



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 245.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét