Là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh hình thành và phát triển gắn liền với toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Trước hết, tư tưởng đối ngoại và đoàn kết quốc tế của Người đã thể hiện nổi bật trong hệ thống các tác phẩm báo chí, các bức thư, các lời kêu gọi, các tác phẩm chính luận của Người. Các quan điểm đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển, hoàn thiện được thể hiện tập trung trong “Đường cách mệnh” (1927), Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930), Chương trình 10 điểm của mặt trận Việt Minh (1944), Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), thể hiện tập trung nhất trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong văn kiện Đại hội, Nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Bộ Chính trị từ năm 1930 đến nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhân sĩ trí thức Mỹ phản đối chiến tranh ở Việt Nam, năm 1967
Nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp, phong cách sau:
- Quan điểm cơ bản – nền tảng tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tất
cả hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải xuất phát từ lợi ích quốc gia,
dân tộc, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết trước hết. Tất cả phải nhằm
mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Không có gì quý hơn độc lập tự do!
- Không ngừng nâng cao thực lực của cách mạng
để nâng cao sức mạnh và hiệu quả của hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế:
“Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”.
Tư tưởng ngoại giao rất quan trọng này đã xác định vị trí và mối quan hệ giữa
xây dựng thực lực của cách mạng, xây dựng và phát huy sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh và hiệu quả của hoạt động ngoại giao. Trong mối quan hệ này, hoạt động
đối ngoại và đoàn kết quốc tế là rất quan trọng, còn xây dựng thực lực cách mạng
có ý nghĩa quyết định.
- Quan điểm coi ngoại giao là một mặt trận, mặt
trận ngoại giao cần và có thể triển khai trên khắp thế giới và ngay tại hậu
phương của đối phương, đối tượng do đó phải chủ động tiến công ngoại giao: “Tiến
công ngoại giao là một tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến lược”[3]. Tiến
công ở đây là phải chủ động tiến công, phải chủ động lấy cái chính nghĩa, lấy cả
nghĩa cả tình (Nghĩa, lý ở đây là chân lý, lẽ phải, là pháp lý, là sự thật…;
tình ở đây là khát vọng hòa bình là tinh thần hòa hiếu, hòa giải, khoan dung…)
để tiến công, để thuyết phục, để cảm hóa, để tranh thủ, lôi kéo, để tập hợp. Do
đó chiến lược ngoại giao phải dựa trên bối cảnh quốc tế, nắm vững đối tác, đối
tượng, dự báo đúng các xu hướng phát triển, các quy luật vận động của thế giới,
chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn, các khu vực, các tổ chức quốc tế,
dự báo thời cơ để quyết định các chiến dịch tiến công ngoại giao. Cần xác định
kịp thời từng nội dung, từng chính sách ứng xử linh hoạt, khôn khéo để đạt hiệu
quả cao.
- Nguyên tắc định hướng mọi hoạt động đối ngoại
và đoàn kết quốc tế là: Kiên định vững chắc về mục tiêu chiến lược đồng thời
linh hoạt mềm dẻo về sách lược. Nguyên tắc ở đây cần kiên định đó là mục tiêu
giành và giữ vững độc lập cho dân tộc, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ quốc
gia (cả vùng đất, vùng trời, vùng biển), đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên
hết trước khi tiến hành các hoạt động đối ngoại. Phải rất năng động, mềm dẻo
trong thực hiện các phương châm, chính sách ngoại giao, biết nhân nhượng, thỏa
hiệp có nguyên tắc, biết lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ của đối tượng
để lôi kéo, phân hóa, cô lập tối đa đối tượng. Biết vận động thuyết phục, cảm
hóa các Đảng phái, các tầng lớp nhân dân các nước đồng tình ủng hộ sự nghiệp
cách mạng, sự nghiệp kháng chiến, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện đúng đắn và hiệu quả nguyên tắc nêu trên khi
tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải vận dụng nhuần nhuyễn
phương châm: biết mình, biết người, biết thời, biết thế, biết tiến, biết thoái,
biết nhu, biết cương, biết dừng và biết biến!
- Trong hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế
phải xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với hợp
tác quốc tế sẽ kết hợp tối ưu sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Đây là mối quan hệ cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu trong tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh. Ngoại giao độc lập, tự chủ tự cường là một chuẩn mực đảm bảo quyền
độc lập thực sự của một quốc gia. Độc lập tự chủ tự cường là “cái gốc”, “cái điểm
mấu chốt” của mọi chủ trương, chính sách, là phương thức khơi dậy mọi nguồn lực
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập tự chủ trong ngoại giao không chỉ dừng lại
ở việc chủ động hoạch định chính sách, biện pháp mà điều quan trọng hơn phải biết
chủ động khai thác nội lực trên tinh thần tự lực, tự cường. Mặt khác, tự lực tự
cường không đồng nghĩa với khép kín, đóng cửa, cô lập mà phải chủ động tăng cường
mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác quốc tế. Bác Hồ từng chỉ rõ một trong những
nguyên nhân suy yếu của các dân tộc phương Đông trong lịch sử là sự cô lập, là
chính sách bế quan, tỏa cảng”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Bác Hồ đã chỉ
rõ: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, gắn bó mật thiết
với phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, độc lập, tiến bộ xã
hội. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, tự cường đồng thời mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã
được lịch sử hơn 90 năm của cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm. Đảng ta khẳng định
đây là bài học kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Xây dựng, phát triển và phát huy sức mạnh tổng
hợp của ngoại giao Việt Nam là quan điểm tư tưởng rất quan trọng trong phương
pháp cách mạng, phương pháp nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Trong những
năm qua, dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn
kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Đảng,
ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế,
ngoại giao quốc phòng… làm tốt vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia
dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ động tích cực đẩy mạnh hội
nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nam trên thế giới.
Hiện nay,
tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn thách thức
đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới yêu cầu mới nặng nề phức tạp hơn đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Để góp phần
cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng
lần thứ XIII đề ra, ngoại giao Việt Nam trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế, triển khai đồng bộ,
sáng tạo, hiệu quả cao đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Ngoại
giao Việt Nam luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng
hợp tác cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy và là thành viên tích cực có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế./.
NĐV-H2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét