Tóm tắt: Khẳng
định phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo
lực đẩy cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đó là kết quả quá trình
nhận thức của Đảng trong lãnh đạo đổi mới và phát triển kinh tế, là sự vận dụng
sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam và ngày càng chứng tỏ tính
đúng đắn trong thực tiễn xây dựng đất nước.
Từ khóa: Đảng
Cộng sản Việt Nam, Kinh tế tư nhân, Kinh tế thị trường
Nghị quyết số 10/NQ-TW (6-2017) của Hội nghị Trung
ương 5 khóa XII, Về phát triển kinh tế tư
nhân trở thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đi
vào cuộc sống. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này, đến nay vẫn còn những ý kiến khác
nhau. Đặc biệt, thời gian gần đây, khi nhiều doanh nhân bị điều tra về hành vi
sai trái liên quan đến thị trường chứng khoán, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, có ý
kiến cho rằng, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
là trái với lý luận Mác - Lênin, trái với luận điểm “xóa bỏ tư hữu” mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đề cập đến khi viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (02-1848). Bài viết
luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn, góp phần làm sáng tỏ tính đúng đắn,
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này.
Khi nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã nhìn thấy sự tồn tại nhiều mâu thuẫn
mà nổi bật là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất đồ sộ, xã hội hóa rộng lớn và quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Các nhà tư bản tìm mọi cách để bóc lột ngày càng nhiều hơn giá trị thặng
dư, đẩy giai cấp công nhân và nhân dân lao động đến cuộc sống nghèo khổ mà
Ph.Ăngghen miêu tả như “cừu ăn thịt người”. Vì lẽ đó, nhất thiết phải thay thế
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà bộ
phận quan trọng nhất trong đó là quan hệ sở hữu. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” (năm 1848), C. Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra luận điểm nổi tiếng cũng là mục
đích cao cả của giai cấp vô sản: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”[1].
Tuy nhiên, cần phải hiểu quan điểm trên một cách biện chứng: mục tiêu của giai
cấp vô sản không phải là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ
chế độ tư hữu tư sản, chế độ đẻ ra nạn người bóc lột người. C.Mác đã khẳng định:
“Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung,
mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”[1].
C. Mác và Ph.Ăngghen còn khẳng định, việc xóa bỏ chế
độ tư hữu không phải dễ dàng, trong thời gian ngắn mà sẽ phải “kinh qua một quá
trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Trong tác phẩm “Những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản”, Ph. Ăng-ghen cho rằng: Không thể thủ tiêu chế độ tư hữu
ngay lập tức cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng
lên ngay lập tức đến
mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu
phải tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển xã hội và
được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động
đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của
chúng nữa.
Kế thừa những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sở
hữu, V.I.Lênin đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa. Ông khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần
phải có cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay
thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm
theo lối xã hội chủ nghĩa...”[2].
V.I.Lênin cũng cho rằng phải hiểu cặn kẽ chủ nghĩa xã hội không có nghĩa là xóa
bỏ tất cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân, mà chỉ xóa bỏ quyền sở hữu
của bọn địa chủ và tư bản. Trên cương vị lãnh tụ nước Nga Xôviết (năm 1922 là
Liên Xô), V.I.Lênin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP). Với việc thực hiện Chính sách
kinh tế mới, nước Nga đã huy động được mọi nguồn lực, làm sống lại nền kinh tế
của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần kinh tế, kể cả các thành phần
phú nông và tư sản, đem lại sự khởi sắc nền kinh tế, xã hội sau chiến tranh.
Như vậy, trong các tác phẩm cũng như trong thực tiễn
hoạt động cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.Lênin không bao giờ phủ nhận sạch
trơn tư hữu nói chung mà chỉ xóa bỏ tư hữu tư sản. Thậm chí, V.I.Lê nin còn thực
hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu trong đó tạo điều kiện cho
tư sản, phú nông và nông dân phát triển, tạo động lực quan trọng để nước Nga Xôviết
vượt qua thời khắc khó khăn. Cố tình xóa bỏ tư hữu nói chung, hạn chế kinh tế
tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là trái với tư tưởng của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.Lênin về sở hữu.
Ở Việt Nam, trong 10 năm đầu lãnh đạo cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (1976 - 1985), Đảng đã nhận thức không đúng về quan hệ sở
hữu, về các thành phần kinh tế. Đại hội VI và Đại hội V của Đảng đều ghi vào
nghị quyết nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ
đó, song cả hai nhiệm kỳ đều không thực hiện được. Thực tế là, chúng ta đã nóng
vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận
hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, với hai thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đây
chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và ngày càng
trầm trọng, kéo dài.
Đại hội VI của Đảng (12-1986), Đại hội mở đầu công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, khẳng định: “Bằng những biện pháp thích hợp, sử
dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và
dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”[3].
Đây thực sự là nhận thức mới của Đảng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
phát triển. Kể từ đây, nhận thức của Đảng về quan hệ sở hữu, về thành phần kinh
tế ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn, các thành phần kinh tế có điều kiện thuận
lợi để phát triển, góp phần vào sự nghiệp xây xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên
cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI (01-2011) xác định xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có đặc trưng nổi bật về kinh tế là: “…có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp”[4]. Đây
chính là định hướng cơ bản của Đảng về lựa chọn chế độ sở hữu phù hợp với tình
hình đất nước trong giai đoạn hiện nay; đồng thời khẳng định tầm tư duy lãnh đạo
và bản lĩnh chính trị của Đảng.
Cụ thể hóa Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011), Đại hội XII của Đảng (01-2016) khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”[5].
Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 5, khóa XII của Đảng đã ban hành Nghị quyết số
10/NQ-TW (6-2017), trong đó đưa ra các quan điểm chỉ đạo để phát triển kinh tế
tư nhân. Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là yêu cầu
khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Phát huy mặt tích cực có
lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra,
giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt
tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”,
quan hệ “lợi ích nhóm”. Kinh tế tư nhân
được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy
phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Khuyến khích kinh tế tư nhân tham
gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà
nước thoái vốn. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh
thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi
ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp.
Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành
pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao. Những quan
điểm trên về phát triển kinh tế tư nhân thực chất là Đảng đã vận dụng sáng tạo
lý luận Mác - Lênin về vấn đề sở hữu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp
với lực lượng sản xuất trong nước, huy động mọi nguồn lực trong xã hội, tinh thần
tự hào, tự tôn dân tộc để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TW (6-2017),
kinh tế tư nhân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, nổi lên như một trong những động
lực quan trọng, dẫn dắt sự tăng trưởng của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân
trong nước đang tạo ra khoảng 42% GDP, 30% ngân sách Nhà nước, thu hút 85% lực
lượng lao động cả nước. Phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư
nhân vào GDP để đến năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60 - 65%. Những
đóng góp của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong những năm qua bao gồm: Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động; huy động các nguồn vốn trong nhân dân, trong xã hội vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân
sách nhà nước; tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, các tập đoàn kinh tế tư nhân (Tập đoàn
VINGROUP, SUNGROUP, Tập đoàn TH…), nhân tố quan trọng trong thành phần kinh tế
tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò và đóng góp to lớn cho nền kinh tế,
trở thành mũi nhọn tại một số lĩnh vực đầu tư như du lịch, chế biến thực phẩm,
công nghệ viễn thông… Các tập đoàn này không chỉ dẫn đầu ở các lĩnh vực hoạt động
trong nước mà đã và đang xây dựng, phát triển thành công những sản phẩm, công
trình mang tầm vóc khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Như vậy, đưa kinh tế tư nhân thành một động lực quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước tiến lớn
về nhận thức, là bước đổi mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế, không mâu
thuẫn với luận điểm “xóa bỏ tư hữu” mà là sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Phát triển kinh tế tư
nhân không những tạo ra động lực, huy động sức sản xuất để đưa Việt Nam tiến
lên mà còn góp phần làm phong phú thêm, khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ
nghĩa Mác - Lênin đối với Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ
đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIi, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2021.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIi, tập II, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2021.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn
tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
7. V. I. Lê-nin, Toàn
tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978.
[1] C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.616
[2] V. I. Lê-nin, Toàn tập,
Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tập 6, tr.518.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X),
Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.41.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr. 70.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.102-103.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét