Tóm tắt: Trong thời kỳ đổi mới, mỗi kỳ Đại hội Đảng là một dấu ấn quan
trọng trong sự phát triển của cách mạng nước ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ
và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. “Khát vọng phát triển đất
nước” là một nội dung
trong chủ đề Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây là điểm mới, điểm nhấn quan
trọng khẳng định quyết tâm mãnh liệt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn
diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững.
Từ khóa: Khát vọng, Đại hội XIII
của Đảng; Phát triển đất nước
Trong
thời kỳ đổi mới, mỗi kỳ Đại hội Đảng là một dấu ấn quan trọng trong sự phát triển
của cách mạng nước ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta trước mỗi giai đoạn cách mạng trên nền tảng thành tựu
đã đạt được cùng với những đặc điểm thuận lợi, khó khăn và thách thức đang đặt
ra. Xuất phát từ
nhu cầu khách quan cấp thiết của thực tiễn đất nước và thế giới với nhiều thời
cơ, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới về lý luận và thực tiễn, Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng đòi hỏi chúng ta phải vươn lên mạnh mẽ hơn, đổi mới đồng
bộ, toàn diện hơn, ở trình độ cao hơn.
“Khát vọng phát triển đất nước” là một nội
dung trong chủ đề Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây là điểm mới, điểm nhấn
quan trọng không chỉ khẳng định quyết tâm mãnh liệt của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục vững bước trên con đường
đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững thực hiện mục tiêu đến
giữa thế kỷ 21 đưa đất nước ta trở thành một nước phát triển, thu nhập cao, mà
còn khẳng định thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, của cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.
1. Khát vọng về một Việt Nam
độc lập, tự do và hạnh phúc đã làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong thế
kỷ 20
Trong
đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt
Nam đã đập tan gông xiềng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, xây dựng và
bảo vệ Nhà nước cách mạng; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Những chiến công oanh liệt đó được tạo nên bằng sức mạnh vô địch
được khởi nguồn từ khát vọng mãnh liệt “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[1], bằng
những hành động “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”[2];
Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, “Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”[3](3).
2. Khát
vọng ấm no, hạnh phúc đã đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn đổi mới thành công,
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay
Đất nước thống nhất, cả nước
bước vào giai đoạn cách mạng mới, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước. Khát vọng chiến thắng đói nghèo, lạc hậu xây dựng một cuộc
sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân đã được Đảng ta xác định quyết tâm đổi mới,
hội nhập quốc tế và được chuyển hóa thành sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt qua
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trong những năm 80, đầu những năm
90 của thế kỷ XX; vượt qua cuộc chấn động chính trị toàn cầu khi mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên bang Xô viết và Đông Âu xụp đổ, cùng những thử thách khắc
nghiệt do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực những năm
1997 - 1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu những năm
2008 - 2009, từng bước đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; vượt lên, kiềm chế
thành công đại dịch Covid-19, hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất do dịch
bệnh gây ra, ổn định kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân, khôi phục,
duy trì tăng trưởng. Sau 35 năm thực
hiện công cuộc đổi mới. Đất nưốc đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ,
toàn diện so với những năm trước đổi mối. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay.
3. Khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc
Thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đất nưốc đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hóa. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đây
là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát
triển của thời đại. Đây không chỉ là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan
trọng, mà còn là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bước vào giai
đoạn cách mạng mới sâu sắc hơn, toàn diện hơn và mạnh mẽ hơn để phát triển
nhanh và bền vững đất nước. Việc đẩy
mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế bằng hoạt động đối ngoại tích cực, độc
lập và tự chủ đã cho phép chúng ta tiến cùng thời đại, nắm bắt, dự báo, tiếp
cận được những xu thế phát triển và những giá trị phổ quát của nhân loại. Những
thành tựu đó tạo nền tảng vững chắc để khẳng định “khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc” của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không phải là một
huyễn tưởng xuất phát từ ngẫu hứng chủ quan, duy ý chí, mà là một khát vọng bắt
nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước,
vào bản lĩnh và những kinh nghiệm dày dạn mà Đảng, nhân dân ta trong thực tiễn
lao động và đấu tranh cách mạng. Đó là khát vọng được bồi đắp trên cơ sở phân
tích, dự báo kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng
thời, tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những
yếu kém, trở ngại bên trong cần phải kiên quyết khắc phục, thích ứng, vượt qua.
Trên cơ sở đánh giá khách
quan, toàn diện thành tựu của 35 năm đổi mới đất nước và khẳng định những kết
quả đó “là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững
bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất
nước”[4].
Bên cạnh đó, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó
khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp
hơn đối vối sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân phải tiếp tục đổi mối mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao,
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc bằng tinh thần yêu nước và sức mạnh đoàn kết
dân tộc.
Tinh thần yêu nước là một
truyền thống quý báu của dân tộc ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[5]
(5). Tinh thần yêu nước của mỗi người dân là nền tảng, cội nguồn sức mạnh
của dân tộc khi được khơi dậy, đoàn kết lại và hướng vào thực hiện mục tiêu cụ
thể vì lợi ích chung. Không chỉ khi “Tổ quốc bị xâm lăng” thì tinh thần yêu nước
của mỗi người dân mới được khơi dậy, sôi nổi và đoàn kết lại, mà tin thần ấy cần
được khơi dậy, sôi nổi, kết lại với khát vọng lớn lao hướng tới kỉ niệm 100 năm
thành lập nước, vì mục tiêu phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân.
Đại
đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý
báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một bài học to lớn của cách mạng Việt Nam đưa
dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại
và phát triển bền vững cho đến hôm nay và mai sau. Tuy nhiên, việc thực hiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng gây ra những trở lực,
thách thức đối với khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn nữa, “các nguồn lực, tiềm
năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy
tốt”[6]
và bài học “thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con
người” cần được quan tâm và phát huy hiệu quả. Đây là những thách thức quan
trọng mà con thuyền cách mạng Việt Nam cần vượt qua hướng tới tương lai tươi
sáng của một đất nước độc lập, một dân tộc tự do, ấm no, hạnh phúc.
Lấy
“khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là mẫu số chung để khơi
dậy tinh thần yêu nước của mỗi người dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời tôn trọng những điểm khác biệt
không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc. Muốn vậy, trước hết, cần tiếp tục nâng cao nhận thức quan điểm: đại đoàn kết là sự
nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo đảm
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nâng
cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước góp phần xây dựng
Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong
trào thi đua yêu nước, tổ chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi
đua làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã
hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động nghiên
cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc đi đôi vối giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ
vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Nhiệm kỳ Đại hội XIII là một dấu mốc, một bước chuyển hết sức
quan trọng, làm tiền đề cho các nhiệm kỳ tiếp theo để thực hiện thắng lợi mục
tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục
tiêu cụ thể “phấn đấu
đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[7]. Phải
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc[8].
Phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất
là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.
15, tr. 131
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t. 4, tr. 534
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t. 4, tr. 280
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Tr. 92
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr. 38
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Tr. 79
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Tr. 99
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Tr. 98
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét