Pages - Menu

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH VỚI CÁC THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 

Tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng bằng các quan điểm sai trái thù địch là một âm mưu thâm độc, là thủ đoạn cơ bản trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thời gian qua, trước những diễn biến bất thường của tình hình thế giới và trong nước, chúng ra sức đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách toàn diện, trong đó coi lĩnh vực tư tưởng chính trị là trọng điểm. Chính vì vậy, nắm được lịch sử đấu tranh, nhận diện chiêu trò chống phá và xác định tốt các giải pháp tăng cường đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.

Từ khóa: Nền tảng tư tưởng của Đảng; Thủ đoạn chống phá; Bảo vệ nền tảng tư tưởng.

Lịch sử đấu tranh với các thủ đoạn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ năm 1930 đến nay, trong Đảng có rất nhiều cuộc đấu tranh với các thủ đoạn chống phá vào nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó đáng chú ý nhất là 3 thời điểm mà phải Đảng ta phải chống quyết liệt và đã chống thành công:

Một là, thời điểm chống sự xâm nhập của Chủ nghĩa Trotsky, ở ta gọi là những phần tử “Tờ-rốt-kít”. Chủ nghĩa này ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười (1917), chống phá cách mạng nhiều nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), nó phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nó xâm nhập vào Đảng ta vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, những nhân vật Tờ-rốt-kít lúc đó như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch đã ra sức phá hoại tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khi đó dù đang ở bên Trung Quốc vẫn gửi những chỉ đạo đấu tranh về trong nước. Đồng chí nhắc các đồng chí Trung ương: “Tuyệt đối chống bọn Tờ-rốt-kít, không có bất kỳ sự nhượng bộ nào về tư tưởng, về chính trị”[1]. Tổng Bí thư Hà Huy Tập lúc đó đã viết hẳn một cuốn sách là “Tờ-rốt-kít và phản cách mạng”. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm “Tự chỉ trích”, tự phê bình những thiếu sót của Đảng, đặc biệt về vấn đề tư tưởng để tạo sự thống nhất trong Đảng.

Hai là, những năm 60 của thế kỷ XX, trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế xuất hiện chủ nghĩa xét lại hiện đại. Chủ nghĩa xét lại đòi xét lại những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, xuyên tạc, bôi đen Chủ nghĩa Mác-Lênin. Lúc đó, Trung ương Đảng ta phải ra một nghị quyết quan trọng, đó là Nghị quyết Trung ương 9, Khoá III, tháng 12 năm 1963. Nghị quyết thể hiện bản lĩnh của Đảng, tầm trí tuệ, hiểu biết sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin và nhận diện thấu đáo những luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa xét lại hiện đại.

Lúc đó, trong Đảng xuất hiện một số người đi theo chủ nghĩa xét lại, chống lại đường lối của Đảng. Đảng ta đã xử lý rất kiên quyết những người theo chủ nghĩa xét lại để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng như Trường Chinh, Hoàng Tùng... đã trực tiếp viết bài “bút chiến”, nhằm tổng kết lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam, chứng minh sự đúng đắn, khoa học của học thuyết Mác-Lênin.

Ba là, thời điểm cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1989 - 1991, cuộc đấu tranh trên phương diện tư tưởng cũng phê phán chủ nghĩa xét lại hiện đại. Bây giờ nhìn lại sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông Âu thấy có nhiều nguyên nhân, nhưng phải khẳng định có một nguyên nhân là chính sự phản bội về tư tưởng lý luận, đi đến phản bội chính trị của một số người lãnh đạo ở các nước XHCN, dẫn đến bi kịch lịch sử ở Đông Âu và Liên Xô.

Ở nước ta, các phần tử phản động, cơ hội chính trị dựa hơi trào lưu đòi “dân chủ hoá, công khai hoá”, đòi “đa nguyên, đa đảng” giống như ở Liên Xô, Đông Âu. Nhưng Đảng ta lập tức đấu tranh rất kiên quyết. Kinh nghiệm ở đây là ta đã phát hiện sớm để phòng ngừa, tổ chức đấu tranh kịp thời. Ta dự báo rất sớm, từ lúc kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười, năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã dự cảm và cảnh báo về sự phản bội của một số người lãnh đạo trong các đảng ở Liên Xô và Đông Âu. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã yêu cầu: “Bây giờ ta phải tự bảo vệ lấy ta”, chính vì thế nên Hội nghị Trung ương 6, Khoá VI, tháng 3 năm 1989, Đảng ta đã đề ra 6 nguyên tắc trong công cuộc đổi mới, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc: “Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[2]. Sau đó, Nghị quyết Đại hội VII năm 1991 của Đảng khẳng định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Để có được nghị quyết và sự khẳng định như vậy, Đảng ta đã trải qua một cuộc đấu tranh không khoan nhượng, đã xử lý không ít đảng viên, có cả đảng viên là lãnh đạo cấp cao mơ hồ, dao động, xa rời nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

 Nhận diện một số chiêu trò chống phá trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay

 Thế lực thù địch cho rằng nước ta không cần Chủ nghĩa Mác-Lênin mà chỉ cần Tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ.

Đây là trò lừa gạt rất tinh vi, một số người nghiên cứu không kỹ có thể mắc mưu họ. Chúng ta đều biết tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc; tìm thấy mối quan hệ khăng khít giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng các dân tộc bị áp bức; tìm thấy con đường đúng đắn để đem lại độc lập dân tộc và tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” viết năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã trích dẫn câu nói của Lênin ở trang đầu: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”[3]. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cái cốt khoa học lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin thực chất là muốn phủ nhận cội nguồn khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nếu Đảng ta không “giữ Chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn thì sẽ không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ và không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, coi đây là nhiệm vụ cốt tử, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. 

Thế lực thù địch luôn “nhai đi nhai lại” rằng trong Đảng nên có phe này, phe kia, như “phe bảo thủ”, “phe cấp tiến”, “phe thân Tầu”, “phe thân Mỹ”... Trong nội bộ, cũng có ý kiến cho rằng chính yêu cầu đoàn kết trong Đảng là nguyên nhân dẫn đến thủ tiêu đấu tranh, khiến cho việc tự phê bình và phê bình không còn thực chất vì đảng viên sợ mang tiếng là “mất đoàn kết”.

Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta trong suốt 92 năm qua. Chưa bao giờ Đảng ta có chuyện phe này, phe kia; các thế lực thù địch sở dĩ kiên trì xuyên tạc Đảng ta có phe này, phe kia là vì họ muốn tấn công vào bản chất truyền thống của Đảng, họ áp dụng chiến thuật “một lời nói dối trắng trợn nhưng nói đi, nói lại nhiều lần sẽ khiến người ta tin là sự thật” mà không biết rằng, nói dối nhiều lần sẽ thành “chú bé chăn cừu”, vài ba lần đầu thì còn có người tin, bịa đặt mãi thì sẽ hết người tin.

Đất nước phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường tác động vào Đảng. Thực tế trong Đảng đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lê-nin và Bác Hồ đã từng cảnh báo.

Còn nói vì yêu cầu đoàn kết mà ảnh hưởng đến tự phê bình và phê bình, dẫn đến thủ tiêu đấu tranh trong Đảng cũng không đúng. Thủ tiêu đấu tranh thì không phải đoàn kết. Đấy là cơ hội chính trị, là thủ đoạn, những người mắc bệnh “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, “dĩ hòa vi quý”...đều là biểu hiện của suy thoái, “tự diễn biến”. Đoàn kết muốn vững chắc thì phải có nguyên tắc. Một là phải trên nền tảng tư tưởng của Đảng, tức là dựa trên lý luận khoa học. Hai là, đoàn kết phải vì cái chung, phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cách mạng mà đặt ra yêu cầu đoàn kết. Ba là lấy lợi ích của nhân dân, quốc gia, dân tộc làm cơ sở. Một số người không tin vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng vẫn cứ đòi đứng trong hàng ngũ của Đảng, đòi những người khác phải đoàn kết với mình thì không thể được.

 Thế lực thù địch lợi dụng công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay để chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Bài học từ lịch sử cho thấy, phòng, chống tham nhũng là quyết sách chiến lược mang ý nghĩa tồn vong của chế độ ta. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình, không thích thú gì khi phải kỷ luật đồng chí của mình mà rất khổ tâm, đau xót. Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì mong nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật, kỷ luật vài người để cứu muôn người” [4]. Và thực tế, từ sự cương quyết của Đảng ta trong việc xử lý các đại án tham nhũng, nhiều vị lãnh đạo, trong đó có không ít vị lãnh đạo cao cấp đã vướng vào vòng lao lý[5]. Lòng tin của nhân dân với Đảng ngày một tăng cao; uy tín của chế độ chính trị được củng cố.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch cũng căn cứ vào đây để tăng cường xuyên tạc, chống phá, xoáy sâu vào các đại án tham nhũng để qua đó nói xấu, bôi nhọ danh dự của cán bộ, đảng viên, cũng như kích động dư luận lung lạc niềm tin vào sự phát triển của đất nước. Chúng tiếp tục tung tin đồn thổi nhiều đồng chí lãnh đạo các cấp với những nghi án tham nhũng, sân sau, v.v. nhằm làm suy giảm uy tín cá nhân lãnh đạo, gây mất đoàn kết nội bộ; gây nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang dư luận, để cho người dân nhìn vào đâu cũng thấy tham nhũng. Từ những “đại án” tham nhũng, các thế lực thù địch chớp ngay cơ hội, tăng cường thông tin trên mạng xã hội, ra sức công kích hòng làm giảm sút uy tín của Đảng, lung lạc niềm tin của nhân dân đối với chế độ và hệ thống chính trị.

Lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để tung tin thất thiệt làm giảm sút ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta.

Đây là chiêu bài không mới, nhưng đứng trước những diễn biến mới phát sinh thực tế trên thềm lục địa của nước ta hiện nay, thủ đoạn này trở nên nham hiểm hơn lúc nào hết. Các trang mạng có máy chủ đặt ở nước ngoài đồng loạt cập nhật diễn tiến tình hình Biển Đông với những hình ảnh, bài viết thật giả lẫn lộn. Trước hết phải khẳng định rằng, sự việc trên là có thật, song các thế lực thù địch đánh vào tâm lý nhẹ dạ cả tin của một bộ phận cộng đồng mạng, thổi bùng lên nguy cơ bị xâm lược và chỉ trích vai trò lãnh đạo của Đảng, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Nhà nước, Quân đội. Trắng trợn hơn, họ còn dựng chuyện phân tích các hệ phái trong Đảng ta, đưa ra các quan điểm giữ gìn chủ quyền biển, đảo hay là lựa chọn thể chế chính trị. Từ đó, chúng hà hơi tiếp sức cho một số đối tượng phản động trong nước, kích động xuống đường biểu tình, chống đối chính quyền các cấp. Chúng tiêm nhiễm vào một bộ phận nhân dân ta với tư tưởng “đổi mới hay là mất nước”, tạo ra những “thư ngỏ, góp ý”,… để gây xáo trộn dư luận quần chúng, đưa vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Thực chất ẩn ý đằng sau những việc làm này nhằm lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin sẽ mắc mưu bằng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chau chuốt, nhưng không ngoài mục đích xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Một số giải pháp chủ yếu tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ những giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Ðảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.

Hai là, đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu độc trên Internet, mạng xã hội.

Ba là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng Internet, mạng xã hội. Trong đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của Internet, mạng xã hội. Phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,…

Như vậy, có thể khẳng định nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên./.

 

 

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2021.

2. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011.

4. Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2006.



[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 3, CTQG, H.2011, tr.167

[2] Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 49, CTQG, H.2006, tr.968

[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 2, CTQG, H.2011, tr.277

[4] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương

[5] Theo số liệu thống kê, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, có 113 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị thi hành kỷ luật, thậm chí có một số đồng chí bị xử lý hình sự. Trong đó, có 53 đồng chí công tác cơ quan chính quyền, 31 cán bộ ở lực lượng vũ trang.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét