Pages - Menu

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

 

  Tóm tắt: Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị là một nội dung quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, cần tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị hiện nay nhằm chống các quan điểm sai trái, thù địch, chống âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch.

Từ khóa: Đấu tranh, bảo vệ tư tưởng chính trị.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[1]. Điều đó làm cho công tác tư tưởng chính trị có một cơ sở thực tế mới, có một “cốt vật chất” vững chắc để thực hiện những nhiệm vụ của mình. Nhưng mặt khác, những thách thức đối với công tác tư tưởng chính trị không hề nhỏ. Các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” gây bạo loạn, lật đổ nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Trong những năm qua các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn tinh vi, thâm độc thông qua hàng trăm cơ quan báo chí, xuất bản ở nước ngoài, móc nối với các phần tử cơ hội chính trị ở trong nước; thông qua con đường ngoại giao, hợp tác kinh tế, đầu tư… hòng chuyển hóa nước ta theo quỹ đạo của Mỹ, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, hòng làm mất ổn định chính trị xã hội, tạo cớ và điều kiện can thiệp sâu hơn chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước cũng như những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên “một bộ phận đảng viên chưa nắm vững chủ chương, đường lối của Đảng”[2] để kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chúng dùng mọi biện pháp để đánh vào nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng hòng gây hoang mang, dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chúng tiếp tục xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, còn thế kỷ XXI là thời đại văn minh tin học, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa nên đã lỗi thời. Các thế lực thù địch còn đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ súy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chúng cho rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội cuối cùng của lịch sử loài người, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là một xã hội áp bức, bóc lột nữa. Đồng thời, chúng coi con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn là “mù mờ”, “không tưởng”; họ tách rời và đối lập độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Các thế lực thù địch còn xuyên tạc, bôi nhọ tư tưởng, đạo đức cách mạng, tác phong, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng viết sách, báo, sản xuất băng hình nhằm hạ thấp Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, coi Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản.

Âm mưu, ý đồ lâu dài không thay đổi của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, thay đổi chế độ ta. Thông qua việc truyền bá những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch, lối sống lai căng vào xã hội, vào cán bộ, đảng viên, dần dần từng bước tạo sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, để đi đến chuyển hóa Đảng ta, chuyển hóa chế độ và cuối cùng thực hiện mục tiêu như cựu Tổng thống Mỹ R. Nixơn đã mong muốn là “chiến thắng không cần chiến tranh”.

Trước những âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới, Đảng đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong bốn nguy cơ. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch. Với tinh thần đó, Đại hội lần thứ X của Đảng đã yêu cầu kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Tại Đại hội lần thứ XI, XII Đảng tiếp tục khẳng định kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch” [3]. Như vậy, đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một chủ trương kiên quyết và nhất quán của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.

Để thực hiện chủ trương đó, nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, nhiều chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương đã được ban hành.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đã nêu lên sáu nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận, trong đó nhiệm vụ thứ tư là chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới đã nhận định: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước... Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả trong những lực lượng nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ, đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội. Các phần tử cơ hội chính trị trong nước móc nối với thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài xuyên tạc, vu cáo, chống phá quyết liệt Đảng, Nhà nước ta trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Trên cơ sở nhận định đó, Nghị quyết đã yêu cầu triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương và các ngành, các cấp.

Vậy nên đấu tranh tư tưởng chính trị là một khía cạnh quan trọng trong những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị không chỉ xoay quanh vấn đề cốt lõi nhất của tư tưởng, lý luận, mà thường gắn với những vấn đề thực tiễn, nhất là những biến động của đời sống xã hội. Điều căn bản nhất là thấy hết những yêu cầu mới đặt ra để nhận diện và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị hiện nay trên một số nội dung sau:

Một là, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, mọi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, coi nhiệm vụ đấu tranh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mỗi người. Phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống các luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém của Đảng, Nhà nước ta trong công tác xây dựng Đảng, trong quản lý kinh tế - xã hội nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trong cuộc đấu tranh này phải: “Dự báo sát, chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, kịp thời xử lý thông tin, dịnh hướng dư luận xã hội bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội”[4]. Làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; không để xảy ra những thiếu sót, khuyết điểm trong quản lý kinh tế - xã hội mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng.

Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính chủ động, tính thuyết phục, tính hiệu quả của công cuộc đấu tranh. Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong các giải pháp đấu tranh, tạo ra sức tự đề kháng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch.

Hai là, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, giữa trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trên mặt trận tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống hoạt động “diễn biến hòa bình”. Phải xuất phát từ tư duy khoa học và sáng tạo trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận để có sức thuyết phục, mọi lý lẽ được sử dụng phải mang tính khoa học, sáng tạo và đi vào quần chúng. Chúng ta đều thấy rằng: Một mặt, lý thuyết về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và xã hội chủ nghĩa (XHCN) được hình thành một cách khoa học, có khảo sát, phân tích thấu đáo trên cơ sở vận dụng những quy luật khách quan. Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một vấn đề quan trọng là những luận thuyết về CNXH được xác lập dựa vào những phương pháp trừu tượng rất cao. Phải tìm tòi và gạt bỏ những vấn đề, những yếu tố đặc thù, hoặc không cơ bản để đi sâu vào lý giải những vấn đề cốt lõi. Lý thuyết nguyên bản cội nguồn đó khi được áp dụng vào những tình huống cụ thể, phải tính tới sự gắn kết những điều kiện bên ngoài với bên trong và phải được soi rọi. Nếu không cân nhắc đến khía cạnh đó dễ bị khiên cưỡng và thường gặp những vướng mắc khó trong vấn đề tháo gỡ.

Tính trừu tượng cao của CNXH khoa học chính là những nguyên lý chung nhất, mang tính phổ biến nhất có thể áp dụng cho mọi nơi, mọi nước. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng để xây dựng CNXH, không thể không tính đến, thậm chí phải hết sức tính đến những điều kiện đặc thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự vận dụng một cách sáng tạo như thế. Trên cơ sở nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác – Lê-nin, Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó cùng với việc kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để đưa ra những tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi, trở thành nền tảng tư tưởng bền vững của dân tộc và có sức lan tỏa ra thế giới. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trong cuộc đấu tranh này phải: “Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh”[5].

Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính chủ động, tính thuyết phục, tính hiệu quả của công cuộc đấu tranh “kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài”[6] trong các giải pháp đấu tranh, tạo ra sức tự đề kháng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch.

Ba là, trong đấu tranh tư tưởng chính trị không được phiến diện, tuyệt đối hóa một chiều. Phiến diện và tuyệt đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của lý luận và tính phong phú của thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không đủ uyển chuyển để tìm ra những luận cứ đấu tranh. Như khi luận bàn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá nhìn nhận quá cao tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý đến vấn đề lợi ích, đến việc phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi nhẹ, thậm chí quên mất việc quan hệ sản xuất phù hợp một cách chủ động và tích cực đối với lực lượng sản xuất. Vấn đề sở hữu cũng vậy. Trước đây, trong lý thuyết, chúng ta chú trọng hết sức đến hai hình thức sở hữu trong xã hội chúng ta là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, coi đó là điều tuyệt đối đúng, là hình thức cơ bản đặc trưng của CNXH. Cho đến hiện nay, khi xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN thì xuất hiện những nhận thức lửng lơ, phó mặc, ít chú trọng tới việc củng cố, hoàn thiện các thành phần kinh tế mang tính chủ đạo, nền tảng là kinh tế nhà nước và hợp tác xã.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp công tác với mục tiêu là nâng cao tính chủ động, tính sắc bén, tính thuyết phục, tính dự báo của công tác tư tưởng chính trị. Làm tốt hơn nữa cầu nối giữa dân với Đảng, giữa Đảng với dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác Tuyên giáo có đủ năng lực chuyên môn, vững vàng bản lĩnh chính trị, tâm huyết với công việc để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với vai trò xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hoá của Đảng

Bốn là, đấu tranh tư tưởng chính trị cần lấy căn cứ từ thực tiễn, quan tâm đến vấn đề của thực tiễn đặt ra. Nếu trong đấu tranh tư tưởng, lý luận mà cứ đi theo một chiều hướng chính thống, theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh trong kinh tế, không để tâm đến tâm trạng xã hội và tình cảm của nhân dân thì không thể đủ sức thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng, lý luận cứ theo một khuôn khổ cứng nhắc, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh vào hoạt động của mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ, sai lệch sẽ xen vào. Trong những dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng, phải kể đến ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái sinh” từ sự chủ quan của công tác tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý luận nói riêng; từ những vi phạm nguyên tắc XHCN trong sản xuất, phân phối và trong cả sinh hoạt đời sống đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực dân, đứng lên giành chính quyền, xây dựng xã hội mới. Trên từng bước đường đổi mới gặp vô vàn khó khăn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứng minh một cách rõ ràng cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc cần làm và sẽ làm được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng lòng chung sức.

Năm là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận mới có thể làm tốt nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng - lý luận, nâng cao được chiều sâu, tính sắc bén, tính thuyết phục của sự phê phán. Cần nghiên cứu một cách có hệ thống những luận điểm sai trái, thù địch để luận chứng bác bỏ có sức thuyết phục từng luận điểm. Phải coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, các chuyên gia về lý luận như là đội quân tinh nhuệ của hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, bảo đảm an ninh trên mạng internet… Chủ động, kịp thời cung cấp định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường sự đối thoại, tiếp xúc trực tiếp của các cấp ủy, cán bộ, đảng viên với nhân dân, tăng cường công tác tuyên truyền miệng, phát huy dân chủ. Kiện toàn và phát huy vai trò của các ban chỉ đạo. Củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân tin vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một điều rất hiển nhiên là, triển vọng phát triển của đất nước phụ thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức của con người, khơi dậy khát vọng và cống hiến cho phát triển của đất nước. Khi tư tưởng đã thông, thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí thành hành động, làm cho triệu người đồng lòng chung sức, tạo thành lực lượng vật chất to lớn thúc đẩy xã hội tiến lên. Yếu tố cốt lõi đưa tới thống nhất tư tưởng và hành động là niềm tin. Niềm tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ nhận thức và nằm trong chiều sâu nhận thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc định hướng tư tưởng và định hướng hành động. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân là keo gắn trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo thành động lực to lớn giúp chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, giữa trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trên mặt trận tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống hoạt động “diễn biến hòa bình”.

Những vấn đề nêu trên là những yêu cầu đặt ra trong cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị hiện nay. Càng thực hiện tốt các yêu cầu đó, cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị sẽ đạt được hiệu quả cao trong quá trình xây dựng CNXH và phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

 

LNH - H3

[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb CTQG- ST, H. 2021, Tập 1, tr. 25.

[2] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb CTQG- ST, H. 2021, Tập 2, tr. 172.

 

[3] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb CTQG- ST, H. 2021, Tập 2, tr. 234.

 

[4] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb CTQG- ST, H. 2021, Tập 2, tr. 233.

 

 

[5]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb CTQG- ST, H. 2021, Tập 2, tr. 233.

[6] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Nxb CTQG- ST, H. 2021, Tập 2, tr. 232.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét