Nói về giá trị và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh bằng những luận điểm quan trọng trên hai bình diện giải phóng và phát triển: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân” và “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ cộng hòa và thống nhất độc lập”.
Trước âm mưu
phá hoại thành quả của chế độ mới và xâm lược trở lại nước ta của thực dân
Pháp, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
với tinh thần: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Người đã cùng với Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo
toàn dân, toàn quân ta tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện và trường kỳ, với
phương châm chiến lược “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, với tinh thần tự lực
cánh sinh, với niềm tin mãnh liệt “kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”.
Tư tưởng đó được rọi sáng và nuôi dưỡng từ Cách mạng Tháng Tám với thiên tài tư
tưởng và tổ chức của Hồ Chí Minh.
Nói về nguyên
nhân và bài học cơ bản nhất làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, của sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc, Người nhấn mạnh: “Cách mạng và kháng chiến thắng
lợi vì nhân dân ta rất đoàn kết, rất hăng hái, rất tin tưởng và đấu tranh rất bền
bỉ”. Tổng kết của Người đã phản ánh nguyên lý sâu xa của giải phóng và quy luật
muôn đời của phát triển, đó là: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”. Nguyên lý và quy luật này tỏ rõ rằng: đoàn kết là
sức mạnh và làm nên sức mạnh của toàn dân tộc. Dù khó khăn, thiếu thốn, gian khổ
đến đâu, dù thử thách hiểm nguy đến chừng nào nhưng với lòng yêu nước nồng nàn,
sự đồng tâm, nhất trí của toàn dân thì cũng vượt qua được. Sức mạnh của lòng
yêu nước đã từng được Hồ Chí Minh ví như một làn sóng mãnh liệt, đủ sức vượt
qua muôn thác ghềnh hiểm trở, đủ sức nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bán nước.
Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, tự lực, tự cường là cội nguồn và động lực
thúc đẩy đoàn kết, đại đoàn kết. Giải phóng và phát triển luôn dựa trên nền tảng
vững chắc đó. Người nhấn mạnh, không chỉ quyết tâm mà còn phải giữ vững tín tâm
và tạo nên đồng tâm, nhất trí, hiệp lực, đồng sức đồng lòng, đồng thuận cả xã hội.
Nếu thiên thời, địa lợi là quan trọng, thì nhân hòa còn quan trọng hơn. Đó là
nhân tố quyết định mọi thành công. Nhờ có nhân hòa mà đội “Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân”, tiền thân của Quân đội ta chỉ với 34 chiến sĩ ban đầu, dựa
vào dân mà đánh giặc, được dân đùm bọc, giúp đỡ và bảo vệ đã đánh thắng ngay từ
trận đầu, làm nên truyền thống bách chiến bách thắng sau này. Chỉ thị thành lập
Đội quân ấy do Hồ Chí Minh đề xướng đã mang tinh thần của Cương lĩnh quân sự đầu
tiên của Đảng với tầm nhìn xa trông rộng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của
nhân dân: “Người trước súng sau, chính trị trọng hơn quân sự”, “có dân thì sẽ
có súng, có dân thì sẽ có tất cả”. Giải phóng cho toàn thể dân tộc khỏi xiềng
xích thực dân phải phát động được sức mạnh của toàn dân. Qua đó, Người giác ngộ,
thức tỉnh, truyền cảm hứng cho toàn dân tộc và trở thành linh hồn khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, thành ngọn cờ dẫn đường cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam; đồng thời, là biểu tượng cao quý cho khát vọng phát triển muôn đời của Việt
Nam - khát vọng Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Với Hồ Chí
Minh và Cách mạng Tháng Tám do Đảng ta và Người lãnh đạo, khát vọng giải phóng
gắn liền với khát vọng phát triển. Cả hai dòng chảy khát vọng ấy liên tục, bền
bỉ có trong lòng Đảng, lòng dân suốt mọi thời kỳ lịch sử và nổi bật, thiết tha
trong tấm lòng lãnh tụ, thành hoài bão, mong muốn tột bậc của Người, mong cho
nước nhà được độc lập, dân tộc và nhân dân ta được tự do, đồng bào ta có cơm
ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành, được hưởng quyền hạnh phúc. Từ ý chí mãnh liệt
của Người: “Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc
lập” đến “Tuyên ngôn độc lập” bất hủ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa đã truyền đi thông điệp của cả dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới “quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do
độc lập ấy”. Đó là sự phát triển nhất quán của Hồ Chí Minh - tự do, độc lập phải
thực sự gắn liền với hòa bình và thống nhất non sông và người dân phải được thụ
hưởng đầy đủ hạnh phúc. Người luôn dằn vặt rằng, chúng ta giành được độc lập tự
do rồi mà dân vẫn đói rét, cực khổ, vẫn trong vòng tăm tối, dốt nát thì độc lập
tự do cũng chẳng để làm gì. Bởi vậy, Người nhấn mạnh, chúng ta phải làm ngay,
làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở và được học hành; để dân xứng đáng được hưởng
thành quả của một nước độc lập và góp sức cho nền độc lập ấy. Trong những ngày
đầu gây dựng chính thể Dân chủ cộng hòa, Chính phủ do Người đứng đầu đã ban bố
và thực hiện những chính sách thiết thực, cần kíp nhất để giữ vững nền độc lập,
để mưu cầu cho quốc dân đồng bào được tự do và hạnh phúc, chống giặc ngoại xâm
đi liền với chống giặc đói và giặc dốt. Người làm cho dân ta hiểu rõ “một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”, dân đói nghèo thì nước hèn, dân tộc ỷ lại trông chờ
vào sự giúp đỡ từ bên ngoài thì không xứng đáng được độc lập tự do. Người nêu
cao tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy tự lực, tự cường để phát triển và từng
bước đi đến bến bờ hạnh phúc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai giảng năm học
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người ký thác niềm tin vào lớp trẻ:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên
đài vinh quang, sánh vai được với các cường quốc năm châu hay không, một phần lớn
nhờ vào công học tập của các em”.
Khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, chế độ mới phải giải quyết cùng một lúc muôn vàn khó
khăn, thử thách, nhất là trước tình huống hiểm nghèo, thù trong giặc ngoài, vận
nước ngàn cân treo sợi tóc. Di sản mục nát mà chế độ cũ để lại là 02 triệu người
chết đói thê thảm, 95% dân số nước ta thất học và mù chữ, ngân khố quốc gia khô
kiệt, chỉ còn hơn một triệu đồng Đông Dương, hầu hết là tiền lẻ đã rách nát
không tiêu được. Hồ Chí Minh đã phát động và làm gương trước toàn quốc đồng bào
về tình tương thân tương ái, giúp nhau vượt qua mọi khó khăn buổi đầu. Các
phong trào: “Hũ gạo cứu quốc”, “Tuần lễ vàng” do Người phát động, gây quỹ “đảm
phụ quốc phòng” do Người chủ trương, toàn dân tăng gia sản xuất, “tấc đất tấc
vàng” do Người kêu gọi để nhanh chóng diệt giặc đói, diệt giặc dốt như diệt giặc
ngoại xâm,… đã tác động vô cùng to lớn vào việc giải quyết thành công những nhiệm
vụ cấp bách của Chính phủ lâm thời. Trong hoàn cảnh ấy, chỉ trong thời gian ngắn,
Hiến pháp đã được soạn thảo, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội được tổ chức thành
công. Quốc hội khóa I đã được triệu tập và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành
nguyên thủ quốc gia. Cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, 474 ngày
đầu tiên, chế độ dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đạt được kỳ tích vẻ
vang, để lại những bài học có giá trị và ý nghĩa to lớn trong việc phát huy
tinh thần Cách mạng Tháng Tám và tư tưởng của Người để giữ vững nền độc lập và
sự phát triển của toàn dân tộc.
Có hai sự kiện
đặc biệt cần phải nhắc lại vào thời khắc khẩn trương của cuộc chiến đấu vì tự
do và phẩm giá con người. Thứ nhất, tháng 10/1946, ngay khi từ Pháp trở về, nói
chuyện với đồng bào đón Bác tại cảng Hải Phòng, Người bày tỏ niềm hy vọng về
tương lai của dân tộc ta: “Dân tộc Việt Nam phải là một dân tộc thông thái”.
Trong khi hậu quả của nền giáo dục ngu dân làm cho hầu hết dân ta mù chữ mà Người
vẫn tài tình tổ chức thành công toàn thể quốc dân đi bỏ phiếu bầu Quốc hội, bằng
cách khẩn trương xóa nạn mù chữ để ai ai cũng biết đọc, biết viết, biết cầm lá
phiếu mà lựa chọn người tài đức, xứng đáng để ủy quyền. Cũng trong hoàn cảnh,
trình độ dân trí phổ thông còn thấp như vậy mà Người vẫn khát khao về “một dân
tộc thông thái” thì đủ hiểu niềm tin và khát vọng phát triển của Người lớn đến
mức nào. Thứ hai, giữa lúc khói lửa chiến tranh đang đến gần, thực dân Pháp
ngang nhiên đe dọa và phá hoại, với tinh thần “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết”,
Hồ Chí Minh đã đến Nhà hát lớn ở thủ đô Hà Nội, dự Đại hội Văn hóa toàn quốc lần
thứ nhất (ngày 24/11/1946). Tại đây, Người đã đọc bài diễn văn nổi tiếng, đi
vào lịch sử dân tộc. Người nhấn mạnh, nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh
phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở; văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Nền
văn hóa mới Việt Nam phải có sức tiếp thu mọi cái hay, cái tốt từ mọi nền văn
hóa khác, của các nước trên thế giới để làm phong phú cho văn hóa của dân tộc
mình. Nền văn hóa mới của Việt Nam phải có sức mạnh chống lại mọi thứ phù hoa,
xa xỉ, lãng phí, tham ô, xây dựng một đời sống vật chất, tinh thần văn minh cho
nhân dân ta. Người cũng kêu gọi các nhà văn hóa quan tâm đặc biệt tới thế hệ trẻ,
thiếu niên, nhi đồng và tương lai của nước nhà.
Như vậy, để
giữ vững độc lập tự do - thành quả vĩ đại của cách mạng, phải đặc biệt chú trọng
xây dựng chế độ mới bằng cách phát huy vai trò, tác dụng của văn hóa. Khát vọng
phát triển được nuôi dưỡng từ khát vọng giải phóng. Khát vọng phát triển lại được
thực hiện bằng sức mạnh của văn hóa, bằng tiếp biến văn hóa để phát triển. Đó
là trù tính sâu sa, chiến lược của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, Người nêu rõ hạnh
phúc (vật chất, tinh thần) của người dân là cơ sở, mục đích của xây dựng văn
hóa. Hạnh phúc của nhân dân là mối quan tâm thường trực, suốt đời trong lẽ sống
và hành động của Người.
Hạnh phúc là
giá trị cao nhất và kết tinh các giá trị Độc lập và Tự do. Hạnh phúc là chỉ số
quan trọng bậc nhất và thực chất của phát triển như Đảng ta đã xác định trong
Văn kiện Đại hội XIII: “đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, “dân tộc cường thịnh,
trường tồn”. Tâm nguyện cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ghi trong Di
chúc “một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tâm nguyện ấy cũng là
khát vọng phát triển của Người, được ấp ủ từ ngày đi tìm đường cứu nước, từ
Cách mạng Tháng Tám - cách mạng giải phóng mà ngày nay toàn Đảng, toàn dân ta
đang ra sức thực hiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét