Cuộc chiến đấu của quân và dân Sài Gòn (nay là
TP Hồ Chí Minh) mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai
(1945-1954), thể hiện quyết tâm bảo vệ chính quyền và nền độc lập mới giành được;
đồng thời để lại nhiều kinh nghiệm quý, trong đó nổi bật là nghệ thuật tổ chức,
sử dụng và phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang tại chỗ ngay
từ những ngày đầu kháng chiến.
Dưới danh nghĩa Đồng minh, ngày 12-9-1945, một
lữ đoàn quân Anh đến Sài Gòn giải giáp vũ khí tàn binh Nhật. Núp bóng quân Anh,
một đại đội quân Pháp vào Sài Gòn, thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam lần thứ
hai. Đến trước ngày 23-9, tại Sài Gòn, Pháp có một đại đội thuộc Trung đoàn 5 bộ
binh thuộc địa (5RIC), tù binh Pháp (bị Nhật giam giữ) mới được thả khoảng
1.400 quân.
Anh có một lữ đoàn khoảng 2.500 quân. Quân
Anh, Pháp đưa ra những đòi hỏi hết sức vô lý mà chính quyền cách mạng không thể
đáp ứng, như giải tán lực lượng vũ trang,
quân Pháp thay thế quân Nhật, thiết quân luật thành phố, cấm hội họp, biểu
tình...
Trước tình hình quân Anh và Pháp đe dọa trắng
trợn, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Xứ ủy và Ủy
ban nhân dân Nam Bộ (từ ngày 23-9-1945 đổi tên là Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ),
quân và dân Sài Gòn-Chợ Lớn dù rất căm phẫn nhưng hết sức kiềm chế và gấp rút
chuẩn bị lực lượng chiến đấu, quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được.
Để tránh sự khiêu khích, xung đột vũ trang do
địch gây ra, từ ngày 20-9, các đơn vị vũ trang tập trung tự xưng là Cộng hòa vệ
binh và dân quân cách mạng được lệnh rút khỏi nội thành ra vùng ngoại ô; đồng thời,
những người già và trẻ em được chuyển từ trong thành phố ra vùng căn cứ,
nông thôn.
Sài Gòn-Chợ Lớn được chia thành 5 mặt trận: Mặt
trận nội thành và 4 mặt trận xung quanh. Tại mặt trận nội thành, các đơn vị vũ
trang gồm 6.000 đoàn viên công đoàn xung phong, 2.000 thanh niên xung phong và
công an xung phong được trang bị thêm vũ khí, tổ chức thành 320 đội tự vệ chiến
đấu, trang bị 120 súng các loại và vũ khí thô sơ, bố trí tại 16 khu vực tác chiến
trọng điểm. Ở các công sở trọng yếu, ta phân công một số đội vũ trang thường
xuyên tuần tra, canh gác (theo cuốn "Miền Đông Nam Bộ kháng chiến
1945-1975", Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr 51-52).
Nhằm ngăn chặn địch mở rộng nống lấn ra vùng
ngoại thành Sài Gòn, ta tổ chức 4 mặt trận, mỗi mặt trận bố trí các đơn vị vũ
trang tập trung và lực lượng tự vệ trấn giữ, kéo dài từ Thị Nghè, Khánh Hội, cầu
Bông đến Rạch Cát, Phú Lâm, cầu Kiệu... tạo thành một thế trận vùng ven bao
vây, cô lập quân địch trong nội thành.
Trước đối tượng tác chiến mạnh hơn, ta đã chủ
động chuẩn bị trước một bước về lực lượng vũ trang, tuy trang bị vũ khí còn thô
sơ nhưng được tổ chức, bố trí phù hợp ở nội và ngoại thành Sài Gòn, nhất là
trên các địa bàn trọng điểm, sẵn sàng đánh địch nếu chúng gây xung đột quân sự.
Từ 0 giờ ngày 23 đến hết ngày 24-9-1945, các
đơn vị lực lượng vũ trang ta đã chiến đấu kịp thời, ngăn chặn địch tiến công ở
dinh Đốc lý, đường Verdun (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), đường Norodom
(nay là đường Lê Duẩn), ga xe lửa, cầu Ông Lãnh, chợ Bến Thành, trụ sở Ủy ban
Kháng chiến Nam Bộ, gây cho quân Pháp một số thiệt hại.
Tiếp đó, lực lượng vũ trang ta được nhân dân hỗ
trợ, lợi dụng những công trình kiến trúc (nhà cửa, cầu cống) của thành phố lớn,
những “chiến lũy” được cấp tốc dựng lên, luồn lách, khi ẩn khi hiện dùng cách
đánh nhỏ lẻ, bất ngờ giáng trả quân địch. Tiêu biểu như ở cột cờ Thủ Ngữ, tiểu
đội bảo vệ của ta chỉ có súng săn, dao găm, lựu đạn nhưng đã chống lại một đại
đội quân Anh.
Một đại đội dân quân theo đường Verdun tiến
vào trung tâm thành phố, chiếm chợ Bến Thành và tiến ra đại lộ Bonard (nay là đại
lộ Lê Lợi), bắn vào các vị trí quân địch. Một số đội tự vệ vượt kênh Tàu Hủ
đánh địch ở đường De la Somme (nay là đường Hàm Nghi)... Chỉ trong tuần đầu,
quân dân Sài Gòn đã loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên địch, đốt cháy 138 xí nghiệp
và công sở lớn, phá hủy 22 kho tàng, 81 tàu, thuyền, 200 xe hơi, 20 đầu máy xe
lửa...
Bước đầu, ta đã ngăn chặn, kìm giữ hiệu quả; địch
chỉ chiếm được một số vị trí, công sở chủ yếu, chúng chưa thể mở rộng đánh chiếm
ra các nơi khác trong thành phố.
Từ cuối tháng 9 và tháng 10-1945, các lực lượng
vũ trang ta thực hiện “trong đánh, ngoài vây”, “trong ngoài cùng đánh”. Tại nội
thành, được một số đơn vị vũ trang từ bên ngoài thọc sâu vào phối hợp tác chiến,
các đơn vị vũ trang ta chia thành nhiều tổ, đội lợi dụng đêm tối, bí mật vận động
tiếp cận, rồi bất ngờ tập kích địch ở đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi),
Khánh Hội, nhà đèn Chợ Quán, nhà máy rượu... gây cho chúng một số thiệt hại.
Ở vùng ngoại thành, lực lượng vũ trang ta cùng
nhân dân bố trí chướng ngại vật, đào chiến hào, lập chiến lũy ngăn chặn địch.
Khi chúng nống ra đã bị ta chặn đánh quyết liệt ở cầu Kiệu, cầu Bông, cầu Thị
Nghè, cầu Tân Định, cầu Ông Lãnh... Cùng lúc, Chi đội 3 Giải phóng quân là đơn
vị hành quân từ miền Bắc vào tận cửa ngõ Sài Gòn, cùng lực lượng vũ trang địa
phương chiến đấu, lập chiến công oanh liệt ở cầu Bình Lợi, Xuân Lộc.
Sau hơn một tháng chiến đấu, quân và dân Sài
Gòn-Chợ Lớn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kìm chân, làm thất bại âm mưu “đánh
nhanh thắng nhanh” của địch, tạo điều kiện cho quân và dân Nam Bộ cũng như cả
nước chuẩn bị về mọi mặt để kháng chiến lâu dài.
Thành công đó là do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, chỉ đạo kịp thời, trực tiếp là Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, Ủy ban
Kháng chiến Sài Gòn-Chợ Lớn đã chủ động tổ chức và bố trí các lực lượng vũ
trang tại chỗ phù hợp, hình thành thế trận đánh địch cả ở nội và ngoại thành,
phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang thực hiện “trong đánh,
ngoài vây”, “trong ngoài cùng đánh”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét