MỞ ĐẦU
Là một đất nước
đang hội nhập mạnh mẽ vào cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển với chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế theo phương
châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế. Công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đòi hỏi phải huy động tổng hợp sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại. Trong đó, đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) - một bộ phận hợp thành
đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước, được xác định là một mặt trận quan trọng
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, luận giải một cách
cụ thể vị trí, vai trò của công tác đối ngoại quốc phòng đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của
hoạt động này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát
triển đất nước hiện nay.
1. Đối ngoại quốc phòng và vai trò
của nó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của nền ngoại
giao Nhà nước, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là thiết lập và phát triển
quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ
trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững hoà bình
và an ninh ở khu vực và trên thế giới.
Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, an ninh
của Việt Nam không thể tách rời an ninh khu vực nói riêng và an ninh của thế
giới nói chung. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy
trì hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới đồng thời cũng là một yếu
tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Chính vì vậy,
Việt Nam chủ trương mở rộng đối ngoại quốc phòng, tham gia ngày càng tích cực
vào các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh của khu vực và của cộng đồng quốc
tế.
Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trương
mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương đồng thời
tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương. Việt Nam đẩy
mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng dưới mọi hình thức như trao đổi các đoàn quân
sự các cấp, tham vấn - đối thoại quốc phòng, tham gia các diễn đàn khu vực và
quốc tế... nhằm tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng
tin và ngăn ngừa xung đột.
Với tư cách là một bộ phận của ngoại giao Nhà nước, công
tác đối ngoại quốc phòng có vai tro quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thể hiện trên hai phương diện cơ bản sau
đây:
Một là, đối ngoại quốc phòng góp phần trực tiếp vào
bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia, củng cố vị thế của quốc gia trên trường
quốc tế. Xuất phát từ lợi ích quốc gia dân tộc khác nhau, nên cách tiếp cận
về an ninh của các nhà nước khác nhau, dẫn đến tình hình an ninh khu vực và thế
giới luôn có sự đan xen cả thời cơ và thách thức, luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất
trắc khó lường, nhất là vấn đề tranh chấp chủ quyền; vấn đề an ninh truyền
thống và phi truyền thống. Đối ngoại quốc phòng chính là phương thức hiệu quả
để Việt Nam cũng như các quốc gia khác trình bày quan điểm về các vấn đề quốc
phòng-an ninh. Thông qua đối thoại, các quốc gia sẽ xây dựng được lòng tin và
ngoại giao phòng ngừa, đưa ra cách tiếp cận, cơ chế, biện pháp và bước đi phù
hợp nhằm giải quyết bất đồng. Đối với nước ta, đối ngoại quốc phòng còn là biện
pháp để bảo vệ Tổ quốc từ xa, góp phần duy trì sự ổn định của đất nước cũng như
hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; tạo môi trường thuận lợi thúc
đẩy quan hệ hợp tác và phát triển, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc
tế.
Hai là, đối ngoại
quốc phòng góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng và sức mạnh tổng hợp của đất
nước. Đối ngoại quốc phòng là hình thức thúc đẩy quan hệ hợp tác về quốc
phòng, quân sự giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, như:
Huấn luyện đào tạo, chia sẻ thông tin, chuyển giao khoa học-công nghệ quân sự,
cứu hộ cứu nạn, thương mại quân sự; tham mưu, dự báo để chủ động trong xây dựng
chiến lược, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trong xu thế hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng; phục vụ tích cực cho việc hình thành cấu trúc an ninh
mới trong khuôn khổ ASEAN và châu Á-Thái Bình Dương; thúc đẩy hoạt động đối
ngoại trên các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần
tăng cường hợp tác, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, những năm qua, công tác đối ngoại quốc phòng đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với
65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc
phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam.
Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN
trong khuôn khổ chương trình xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN và
phù hợp quan hệ song phương với từng nước theo hướng mở rộng chia sẻ thông tin,
kinh nghiệm, tăng cường hợp tác đào tạo, huấn luyện, phối hợp xử lý các vấn đề
an ninh mà các bên cùng quan tâm.
Việt Nam chú trọng mở rộng đối thoại quốc phòng với các
nước có liên quan, giúp cho các bên hiểu rõ quan điểm của nhau, tạo ra cơ hội
giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của các bên. Việt Nam đã tiến
hành đối thoại quốc phòng - an ninh thường xuyên ở nhiều cấp độ với các quốc
gia trong khối ASEAN, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ… Cùng với
việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, giao lưu giữa các sĩ quan
trẻ, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt
Nam với các nước cũng được coi trọng. Việt Nam đã đón 46 đoàn gồm 81 lượt tàu,
hơn 18000 lượt sĩ quan và thuỷ thủ hải quân các nước tới thăm các cảng Hải
Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008, lần đầu tiên, Việt Nam đã cử
đoàn tàu hải quân đi thăm hữu nghị nước ngoài.
Do điều kiện địa lý, lịch sử và quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới ngày càng sâu, nhiều vấn đề quốc phòng, an ninh của Việt
Nam ngày càng liên quan chặt chẽ với các quốc gia láng giềng. Vì vậy, đi đôi
với hoạt động trao đổi các đoàn quân sự, hợp tác về huấn luyện, đào tạo... với
tất cả các nước, Việt Nam ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng để giải quyết
các vấn đề quốc phòng - an ninh song phương. Việt Nam đã hoàn thành phân giới
cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc; đang tiến hành phân giới cắm mốc tại
nhiều khu vực biên giới quan trọng và đã thoả thuận hoàn thành phân giới cắm
mốc vào năm 2012 với Cămpuchia; đã hoàn thành phân định và đang tăng dày mốc
biên giới với Lào; đang tăng cường phối hợp tuần tra kiểm soát khu vực biên
giới trên đất liền giữa bộ đội biên phòng Việt Nam với lực lượng biên phòng và
an ninh các nước để thực hiện nghiêm chỉnh các Điều ước quốc tế về biên giới,
các thoả thuận hợp tác biên phòng nhằm phòng chống các loại tội phạm như buôn
lậu qua biên giới, di cư bất hợp pháp, buôn bán phụ nữ và trẻ em, ma tuý... góp
phần xây dựng biên giới hoà bình và hữu nghị. Việt Nam đã cố gắng giải quyết
các vấn đề biên giới trên biển, mở rộng hợp tác với các nước khác để bảo đảm an
ninh biển. Hải quân Việt Nam đã lập đường dây nóng và tiến hành tuần tra chung
với hải quân một số nước như Cămpuchia, Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc nhằm
nâng cao hiệu quả phối hợp bảo vệ an ninh trên các vùng chồng lấn và khu vực
giáp ranh trên biển.
Là thành viên chính thức của Liên hợp quốc từ năm 1977,
Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình đồng thời tham gia tích
cực và có trách nhiệm vào các vấn đề an ninh quốc tế. Trong thời gian là Uỷ
viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009) Việt
Nam đã tham khảo ý kiến của các nước không liên kết, phối hợp chặt chẽ với các
nước thành viên Hội đồng bảo an để đưa ra các quyết định về các vấn đề an ninh
quốc tế phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.
Việt Nam đánh giá cao vai trò và coi hoạt động giữ gìn hoà
bình là một chức năng quan trọng của Liên hợp quốc. Để hoàn thành tốt chức năng
này, các hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc phải tuân thủ nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia; bảo đảm tính vô tư, không thiên vị và chỉ được triển
khai khi được các bên liên quan đồng ý. Việt Nam đang hoàn tất quá trình chuẩn
bị để có thể tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động gìn giữ hoà bình của
Liên hợp quốc, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Các cơ quan hữu quan
của Việt Nam đang tích cực nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước khác,
chuẩn bị nhân sự có đủ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức luật pháp
quốc tế để có thể tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc với
hiệu quả cao nhất.
Xuất phát từ chủ trương ủng hộ và tích cực đóng góp vào
những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì hoà bình, an ninh và giải trừ quân
bị, Việt Nam tích cực tham gia vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế nhằm
ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh cũng như giải quyết hậu quả xung đột vũ
trang và chiến tranh. Việt Nam đã cùng các nước Đông Nam Á khác ký Hiệp ước khu
vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Việt Nam kêu gọi các nước sở
hữu vũ khí hạt nhân tham gia Nghị định thư của Hiệp ước này để Đông Nam Á mãi
mãi là khu vực không có vũ khí hạt nhân. Phù hợp với chủ trương nhất quán là
ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về
giải trừ quân bị, Việt Nam hoan nghênh những sáng kiến nhằm ngăn chặn việc phát
triển, sản xuất, tàng trữ, và sử dụng các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Đồng
thời, Việt Nam cho rằng các quốc gia có quyền nghiên cứu, phát triển và chuyển
giao công nghệ hạt nhân, hoá học và sinh học vì mục đích hoà bình theo các quy
định của luật pháp quốc tế. Việt Nam đã tham gia và chấp hành nghiêm chỉnh
nhiều công ước, hiệp định, nghị định thư về cấm phổ biến các loại vũ khí huỷ
diệt hàng loạt và các công ước quốc tế về giải trừ quân bị khác. Việt Nam cũng
đang nghiêm chỉnh xem xét các điều ước, công ước quốc tế trên lĩnh vực quốc
phòng - an ninh và tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ khi tham gia.
Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực và
trên thế giới trong nỗ lực giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Để
nâng cao hiệu quả hợp tác trên lĩnh vực này, Việt Nam chủ trương mở rộng và
nâng cao chất lượng hợp tác cả song phương và đa phương như trao đổi thông tin,
kinh nghiệm, lập cơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan của các nước để phòng
ngừa, đối phó và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống có liên quan. Các cơ
quan chức năng của Việt Nam đang chuẩn bị về nhân sự và trang bị kỹ thuật để có
thể tham gia các hoạt động diễn tập đa phương tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông,
trước hết là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực.
Việt Nam chú trọng tăng cường hợp tác quốc phòng với các
nước ASEAN dựa trên các cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh trong quá trình xây
dựng Cộng đồng ASEAN. Các cơ chế này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc
“đồng thuận”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, “không biến Cộng
đồng ASEAN thành liên minh quân sự hay khối phòng thủ chung”... và các nguyên
tắc cơ bản khác của Hiến chương ASEAN. Việt Nam đánh giá cao và tích cực tham
gia Hội nghị bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và các hội nghị quan
chức quốc phòng khác, ủng hộ các sáng kiến tăng cường hợp tác giữa quân đội các
nước ASEAN nhằm giải quyết các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm. Trên
tinh thần đó, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các cơ chế
hợp tác đa phương với các nước ASEAN trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh như
tham dự các hội nghị quốc phòng các nước ASEAN ở tất cả các cấp, trao đổi kinh
nghiệm về xây dựng quốc phòng, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, chống
khủng bố, tham gia các hoạt động nhân đạo trong phòng chống thiên tai, cử quan
sát viên tới dự các cuộc diễn tập quân sự của các nước trong khu vực... Năm
2010, với tư cách là chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các nước
thành viên khác tổ chức thành công các hội nghị và hoạt động nhằm tăng cường
quan hệ hợp tác quốc phòng giữa các nước trong ASEAN. Bộ Quốc phòng Việt Nam
cũng ủng hộ và tham gia tích cực vào nỗ lực mở rộng quan hệ hợp tác về quốc
phòng - an ninh với các đối tác bên ngoài ASEAN nhằm góp phần duy trì hoà bình,
ổn định ở khu vực và trên toàn thế giới.
2. Phát huy vai trò đối ngoại
quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Để hoàn thành trọng trách được
giao, công tác đối ngoại quốc phòng trong thời gian tới cần quán triệt tư duy
mới về hội nhập quốc tế (HNQT) được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đề cập là “chủ động và tích cực
HNQT”. Theo đó, HNQT trên lĩnh vực quốc phòng cần được tiến hành “... trên cơ
sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình
HNQT”. Quá trình mở rộng HNQT trên lĩnh vực quốc phòng, công tác ĐNQP cần giữ
vững nguyên tắc bảo đảm độc lập, tự chủ về quốc phòng - an ninh (QP-AN) cho đất
nước. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, cần được quán triệt trong mọi kế
hoạch, biện pháp của công tác ĐNQP. Mặt khác, chúng ta cần nhận thức đúng về
mối quan hệ hữu cơ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tăng cường HNQT trên lĩnh
vực quốc phòng. Đây là hai mặt trong một thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ
với nhau trong công tác ĐNQP. HNQT trên lĩnh vực quốc phòng nhằm tăng cường sức
mạnh quốc phòng của đất nước cả về tiềm lực và thế trận, để giữ vững độc lập,
tự chủ của đất nước, bảo vệ môi trường hòa bình và phát triển đất nước. Ngược
lại, giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện thuận lợi cơ bản để tăng cường HTQT
về quốc phòng. Không có độc lập, tự chủ thì không thể HNQT thành công. Để hội
nhập có hiệu quả đồng thời giữ vững được độc lập, tự chủ, công tác ĐNQP cần
tiếp tục thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ, để chúng ta
không bị lệ thuộc vào bất cứ mối quan hệ nào. Mặt khác, chúng ta cần tích cực,
chủ động, sáng tạo trong hợp tác quốc phòng (HTQP), tránh tư duy phiến diện,
cực đoan, duy ý chí để thúc đẩy các quan hệ quốc phòng (QHQP) phát triển cả bề
rộng và chiều sâu.
Để phát huy hiệu quả hơn nữa
vai trò của ĐNQP trong thời gian tới, cần nhận thức và làm tốt những nội dung
biện pháp sau đây:
Một là, ĐNQP
trong những năm tới cần được tiến hành đồng bộ với HNQT trên các lĩnh vực khác
để tạo thành một thể thống nhất trong chiến lược chung của quốc gia, giữ vững
mối quan hệ hữu cơ giữa xây dựng và BVTQ. ĐNQP không chỉ nhằm tăng cường
khả năng quốc phòng của đất nước mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay, nước ta đã
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với nhiều quốc gia, kể cả với nhiều cường
quốc trên thế giới; quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước ngày càng phát
triển theo chiều sâu. Trong các mối quan hệ đó, HTQP là một yếu tố không thể
thiếu và cần được phát triển để trở thành một trong những khâu trọng yếu đáp
ứng các nhu cầu HNQT của đất nước. Trên tinh thần “phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm” của đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, công tác ĐNQP
phải đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi
cho công cuộc phát triển đất nước. Mặt khác, quá trình mở rộng HNQT cũng tạo ra
những nhu cầu hợp tác QP-AN ngày càng đa dạng,với mức độ ngày càng sâu. Đây là
vấn đề có tính quy luật trong HNQT. Do vậy, công tác ĐNQP cần nắm vững các nhu
cầu đó để chủ động phát triển các hình thức và biện pháp thúc đẩy HTQP cả song
phương và đa phương phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thời gian tới, chúng
ta cần làm sâu sắc thêm các mối quan hệ HTQP trong các vấn đề an ninh phi
truyền thống, như: chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, cứu hộ, cứu nạn,
phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh..., nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn
các nhu cầu cấp thiết trong quá trình HNQT của đất nước.
Hơn thế, các đơn vị kinh tế và
công nghiệp quốc phòng (CNQP) của quân đội phải tích cực nắm bắt các cơ hội khi
ta tham gia vào các cơ cấu kinh tế đa phương, như: Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ASEAN...
cũng như các cơ chế hợp tác kinh tế song phương để trực tiếp tham gia quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Các cơ quan Bộ Quốc phòng (BQP) cần đề
ra các chương trình và chỉ đạo chặt chẽ hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của
các đơn vị kinh tế và CNQP, thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với kinh
tế, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Hai là, tham gia bảo vệ chủ quyền,quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ
môi trường hoà bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới. ĐNQP phải
trở thành một trong những lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi
chiến lược BVTQ. Trong điều kiện đất nước hội nhập ngày càng sâu vào thế giới
và khu vực, các vấn đề liên quan tới QP-AN của nước ta ngày càng liên kết chặt
chẽ với các vấn đề an ninh của các nước láng giềng, của khu vực và quốc tế. Do
đó, chúng ta cần đẩy mạnh HTQP với các đối tác để có thể giải quyết hiệu quả
các vấn đề an ninh có liên quan, đẩy mạnh hợp tác với các cơ quan hữu quan của
các nước láng giềng để bảo vệ an ninh biên giới, giữ vững chủ quyền của Tổ
quốc.
Công tác ĐNQP cần phải phối hợp
chặt chẽ với đối ngoại của Nhà nước và nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa đấu
tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa của các lực lượng để đánh bại mọi
âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền
chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu
tranh trong quan hệ quốc tế, ĐNQP phải thực hiện đấu tranh đối với các hành
động xâm phạm chủ quyền; đồng thời, thực hiện hợp tác để bảo vệ các lợi ích
quốc gia. Hợp tác và đấu tranh trong ĐNQP để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền
và các lợi ích quốc gia của đất nước là hai mặt của một vấn đề và không thể xem
nhẹ mặt nào. Chúng ta đấu tranh không khoan nhượng trong những vấn đề có tính
nguyên tắc, nhưng mềm dẻo, linh hoạt trong các vấn đề cụ thể để có thể hợp tác
giải quyết các bất đồng. Mặt khác, cần thông qua hợp tác để tác động, đấu tranh
nhằm hạn chế các hoạt động xâm phạm chủ quyền của Tổ quốc. Để làm được như vậy,
ĐNQP cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, kết hợp chặt chẽ với các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, quân đội trong một chiến lược thống nhất nhằm giữ vững
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ba là, công tác ĐNQP phải góp phần quan trọng trong đấu tranh chống "diễn
biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, bảo vệ Đảng, chế độ XHCN và ổn định chính
trị để phát triển đất nước. Để hoàn thành nhiệm vụ này, ĐNQP phải kết hợp
chặt chẽ giữa phòng và chống. Thông qua mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp
tác, ĐNQP tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân
ta với quân đội và nhân dân các nước, làm cho dư luận, nhân dân, quân đội các
nước hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất
tốt đẹp của chế độ XHCN. Như vậy, ĐNQP có thể làm thất bại ngay từ bên ngoài
các luận điệu tuyên truyền chống chế độ XHCN của các thế lực thù địch. Mặt
khác, ĐNQP phải đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu nhằm “phi chính trị hoá”
quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài việc chống các hoạt
động tuyên truyền phản cách mạng, các tác động xấu của HNQT đến tư tưởng của bộ
đội, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền ĐNQP trên những địa
bàn trọng điểm bằng các hình thức đa dạng và phong phú.
Bốn là, ĐNQP phải
tích cực góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Thông qua các hoạt động hợp tác, ĐNQP phải góp phần xây dựng đội
ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc, tiếp thu các kiến thức quân
sự hiện đại của thế giới. Để đạt được mục đích này, chúng ta không
chỉ đơn thuần gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu kiến thức khoa
học, kỹ thuật quân sự hiện đại mà phải thông qua thực tiễn hoạt động HTQP để
bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Chính thực tiễn sinh động với nhiều thử
thách không kém phần cam go của công tác ĐNQP sẽ là trường học lớn để cán bộ
quân đội phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Mặt khác, thông qua thương mại
quốc phòng và các cơ chế hợp tác CNQP, ĐNQP cần tranh thủ các nguồn lực về vốn,
khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến…, để trang bị cho quân đội các
loại vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại,phù hợp với điều kiện và nghệ thuật
quân sự Việt Nam, làm cho đất nước ngày càng tự chủ về khoa học, kỹ thuật quân
sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện.
Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ
nêu trên, chúng ta cần chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNQP, tiếp tục đưa
các mối quan hệ quốc tế về quốc phòng đi vào chiều sâu. Việc nâng cao hiệu quả
hoạt động ĐNQP đòi hỏi phải nâng cao toàn diện chất lượng công tác nắm tình
hình, tham mưu và năng lực thực hiện; trong đó, chất lượng công tác tham mưu
chiến lược đối ngoại trong chiến lược BVTQ, trong xây dựng nền quốc phòng toàn
dân giữ vai trò then chốt. ĐNQP phải nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho
Quân uỷ Trung ương, lãnh đạo BQP, lãnh đạo Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính
sách cũng như các biện pháp cụ thể trong quá trình HNQT. Các lực lượng làm công
tác đối ngoại trong quân đội phải góp phần quan trọng trong đề xuất các chủ
trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, kiến nghị các giải pháp, đối
sách thích hợp, xử lý các tình huống phức tạp để nâng cao chất lượng các hoạt
động HTQP cũng như hoạt động đối ngoại của nước ta nói chung.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động
ĐNQP, các cấp, các ngành, nhất là lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong
quân đội cần nhận thức đúng về vai trò của công tác ĐNQP trong thời kỳ đẩy mạnh
HNQT và sự kết hợp giữa công tác đối ngoại với công tác quốc phòng, quân sự là
thành tố không thể thiếu trong sức mạnh quốc phòng của đất nước. Mọi hoạt động
của công tác ĐNQP đều phải được tính toán cẩn trọng, thực hiện nghiêm túc,
triệt để với độ chính xác cao. Chúng ta cần đấu tranh với nhận thức cho rằng,
công tác đối ngoại chỉ mang tính chất lễ tân, nên khi tiến hành chỉ chú trọng
hình thức, không chú trọng hiệu quả đối với QP-AN của đất nước cũng như việc
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình. Trong công tác nắm tình hình, ĐNQP
phải nâng cao khả năng nắm bắt thông tin, nhất là thông tin dự báo chiến lược
về tình hình thế giới và khu vực có liên quan đến quốc phòng Việt Nam. Để nắm
chắc tình hình, ĐNQP phải tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp;
giữa nắm và nâng cao khả năng phân tích,xử lý thông tin.
Nâng cao khả năng thực hiện các
hoạt động ĐNQP của lực lượng chuyên trách cũng như của các cá nhân, đơn vị có
liên quan đến hoạt động đối ngoại của quân đội là vấn đề then chốt trong việc
nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP thời gian tới. Cán bộ, chiến sĩ tham gia hoạt
động ĐNQP phải có phẩm chất tốt và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Đội ngũ cán bộ ĐNQP chuyên trách phải nắm vững đường lối, chính sách quốc
phòng, đối ngoại và được đào tạo để trở thành các chuyên gia có trình độ chuyên
môn cao. Mặt khác, chúng ta cần bồi dưỡng kiến thức và năng lực thực hiện công
tác ĐNQP cần thiết cho đội ngũ sĩ quan; trong đó, chú trọng cán bộ chủ trì, cán
bộ tham gia hoạt động ĐNQP tại các đơn vị trọng điểm; đồng thời, cần tiếp tục đầu
tư thích đáng, có hiệu quả cơ sở vật chất, hoàn thiện các cơ chế thực hiện,
hiệp đồng thực hiện nhiệm vụ ĐNQP.
Phát triển các mối QHQP theo
chiều sâu cũng là một nội dung quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP.
Các mối QHQP song phương với các nước láng giềng, các nước ASEAN và các đối tác
lớn cần phải được ưu tiên và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc. QHQP
giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia dựa trên cơ sở tình hữu nghị truyền thống,
tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, thực hiện hợp tác đi vào chiều sâu đáp
ứng nhu cầu bảo vệ an ninh của mỗi nước. QHQP giữa Việt Nam với các thành viên
khác của ASEAN cần chú trọng hợp tác hiệu quả trong quá trình xây dựng Cộng
đồng chính trị - an ninh ASEAN. QHQP với Trung Quốc phải dựa trên tinh thần hữu
nghị truyền thống, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước để thiết
lập các cơ chế hợp tác giữ gìn an ninh chung ở biên giới trên bộ và trên biển,
góp phần giải quyết các vấn đề an ninh mà hai bên cùng quan tâm. Chúng ta cần
chú ý thích đáng để mở rộng hợp tác với các đối tác lớn như Nga, Ấn Độ, Mỹ...,
đáp ứng các nhu cầu quốc phòng của đất nước.
QHQP đa phương cần phát huy các
thành tích đã đạt được trong năm Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN, tiếp tục
khẳng định vai trò trong việc duy trì động lực phát triển của cơ chế Hội nghị
Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở
rộng (ADMM+), cũng như tiếp tục nghiên cứu để tham gia ngày càng sâu hơn vào
các hoạt động HTQP đa phương khác trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)
và các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Cần kết hợp chặt chẽ giữa
hợp tác song phương và hợp tác đa phương trong một chiến lược, kế hoạch thống
nhất, nhằm phát huy các ưu điểm của các loại hình hợp tác, tạo ra các cơ chế
hợp tác thích hợp để nâng cao thế và lực của ĐNQP Việt Nam nói riêng, thế và
lực của nền quốc phòng toàn dân nói chung.
KẾT LUẬN
Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của nền ngoại
giao Nhà nước, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là thiết lập và phát triển
quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ
trang, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững hoà bình
và an ninh ở khu vực và trên thế giới.
Trong thời kỳ phát triển mới
của đất nước, công tác ĐNQP cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, bám sát sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung
ương, BQP, chủ động, tích cực phát triển HTQP đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu,
lấy hiệu quả làm thước đo thực hiện nhiệm vụ phục vụ đắc lực cho công cuộc xây
dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
bài viết rất hữu ích
Trả lờiXóa