MỞ ĐẦU
1. Cơ sở
lựa chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, chỉ có một
thế giới duy nhất và thống nhất – thế giới vật chất, tồn tại trong mối liên hệ
thống nhất biện chứng, tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận động
biến đổi và phát triển không ngừng. Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải
có nhận thức đúng về quá trình vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan. Những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác
xít nói chung, nguyên lý về sự phát triển nói riêng làm rõ; đây cũng chính là
cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nâng cao nhận thức, hiểu biết đúng đắn về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay nói chung, quá trình phát
triển bền vững kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng.
➽Hãy về quỳ dưới đất Mẹ, xin lỗi nhân dân, tu tâm dưỡng tính, Tổ quốc sẽ khoan hồng!➽Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!
➽Hãy về quỳ dưới đất Mẹ, xin lỗi nhân dân, tu tâm dưỡng tính, Tổ quốc sẽ khoan hồng!➽Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!
Mặt khác, Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển của mọi quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, nhằm tạo dựng một xã hội ổn định, văn minh và hạnh phúc ở cả hiện tại và trong tương lai xa của đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước ba thập kỷ qua của nước ta, ngoài việc đem lại những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực theo hướng phát triển bền vững, cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức không nhỏ: sự phát triển “nhanh” và “nóng” của nền kinh tế, ô nhiễm môi trường đang trở nên ngày càng bức xúc, nhất là ở đô thị và các khu công nghiệp đang gia tăng một cách nhanh chóng... Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay là làm thế nào để vừa giữ được sự tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả bền vững mà vẫn bảo đảm ổn định chính trị và an sinh xã hội, đồng thời bảo vệ được môi trường và ứng phó có hiệu quả với tác động của biến đổi khí hậu.
Để giải quyết những vấn đề trên, nhất là vấn
đề phát triển bền vững kinh tế của đất nước, đòi hỏi phải có quan điểm, đường
lối đúng đắn, phù hợp trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, trong đó quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm
về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là yêu cầu có tính nguyên tắc, đảm
bảo định hướng quá trình phát triển kinh tế một cách hiệu quả, nhanh và bền
vững.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa
chọn đề tài “Quan điểm của
phép biện chứng về sự phát triển, vận dụng phân tích phát triển bền vững về
kinh tế nước ta hiện nay” làm đề tài
Tiểu luận.
2. Néi
dung gi¶i quyÕt cña ®Ò tµi
Tiểu luận
đề cập một số vấn đề lý luận về nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy
vật, quan niệm về phát triển bền vững kinh tế cũng như thực trạng vận dụng quan
điểm về sự phát triển của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển bền vững kinh tế
ở Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
I. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển
Phép biện chứng duy vật là một hình thức cơ bản của phép biện chứng trong
lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Để cải tạo hiện thực khách quan, con
người phải tác động vào thế giới ấy đúng như nó vốn có, đúng với bản chất, quy
luật vận động của nó. Phép biện chứng chủ quan là kết quả của sự phản ánh biện
chứng khách quan vào ý thức con người. Ph. Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là
khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là
chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn
bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập”[1].
Phép biện
chứng duy vật là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố giữ một vai trò
khác nhau, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong tác phẩm Bút ký
triết học, khi nêu lên 16 yếu tố của phép biện chứng, V.I.Lênin không những
khẳng định mối liên hệ giữa các yếu tố đó, mà còn chỉ ra rằng, đó là một hệ
thống mở và trong hệ thống ấy thì quy luật “thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập” giữ vai trò quan trọng nhất,
thực chất, là hạt nhân của phép biện chứng. V.I.Lênin viết: “Có thể định
nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi
phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”[2]. Như vậy, trong kết cấu của phép
biện chứng duy vật, các nguyên lý cơ bản - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển là những yếu tố đầu tiên có tính phổ quát nhất, định
hướng toàn bộ nội dung, đồng thời xác định những nguyên tắc phương pháp luận cơ
bản của cả hệ thống. Trong đó nguyên lý về sự phát triển khẳng định hướng vận
động tất yếu của biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, qua đó, chỉ rõ
thực chất của phép biện chứng như là học thuyết về sự phát triển.
1. 1. Định
nghĩa về sự phỏt triển
Trong phép
biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với nguyên lý về
sự phát triển. Tuy nhiên, cũng như mọi vấn đề triết học khác, phát triển cũng
được xem xét dưới các giác độ phương pháp luận và thế giới quan khác nhau, đối
lập nhau: biện chứng và siêu hình, duy tâm và duy vật.
Quan điểm
siêu hình xem xét phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng,
không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính phong phú muôn vẻ về chất của các sự
vật, hiện tượng đều được xem là nhất thành, bất biến trong suốt quá trình tồn
tại của nó. Sự phát triển không nhất thiết phải có sự ra đời của cái mới, mọi
thay đổi nếu có cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín. Hơn nữa, quan
điểm siêu hình cũng xem xét phát triển như một quá trình tiến lên liên tục,
không có những bước quanh co phức tạp và nguồn gốc của nó nằm bên ngoài sự vật,
hiện tượng.
Như vậy, việc
thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ để phân biệt
một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình. Điều chủ yếu để phân định
hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn ra như thế nào.
Theo quan
điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ
quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo quan
điểm đó, vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Vận
động chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, không kể tính chất, khuynh hướng hay
kết quả của sự biến đổi đó. Còn phát triển phản ánh tính chất, khuynh hướng đi
lên của sự biến đổi nói chung ấy. Như vậy, sự phát triển có đặc tính là đi lên,
có tính kế thừa nhất định, có sự lặp lại cái cũ trên cơ sở cao hơn và tất yếu
có sự ra đời của cái mới. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là đặc
tính cố hữu của vật chất, gắn với mọi dạng vật chất. Sự phát triển là một kiểu
vận động đặc biệt, được đặc trưng bởi tính xu hướng, tiến lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Vì thế, không
phải bất cứ sự vận động nào cũng được coi là sự phát triển.
Sự phát triển
bên trong của giới sinh vật thể hiện ở sự tiến hoá từ đơn giản đến phức tạp, từ
đơn bào đến đa bào, từ thực vật đến động vật, từ động vật cấp thấp đến động vật
cấp cao và đến con người; ở sự không ngừng hoàn thiện các cơ quan chức năng bảo
đảm cho sự thích nghi với diễn biến phức tạp của môi trường và sự bảo tồn các
giống loài.
Xã hội loài
người cũng không phải là một quá trình biến đổi trong đó chỉ toàn những sự biến
lộn xộn, ngẫu nhiên, mãi mãi như thế mà là một quá trình không ngừng phát triển
được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội, biểu hiện ở sự phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất, sự kế tiếp nhau của các nền văn minh, các hình thái kinh tế
- xã hội, v. v..
Tất cả điều
ấy đã bác bỏ luận điệu của triết học tư sản hiện đại cho rằng không thể tìm căn
cứ khách quan cho tính phổ biến của sự phát triển; rằng sự phát triển chỉ được
áp dụng trong những giới hạn hết sức nhỏ hẹp của thế giới, thậm chí, đó chỉ là
sự áp đặt mang tính chủ quan, mục đích luận của những người sáng lập ra phép
biện chứng duy vật. Những quan niệm này về thực chất là siêu hình, đặt dấu bằng
giữa phát triển và biến đổi, chỉ thừa nhận sự biến đổi vô hướng, do đó, nhằm
mục đích biện hộ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
2. Phép biện chứng với tính cách là khoa học về
sự phát triển
Phép biện
chứng duy vật khẳng định: sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình
khách quan, là sự tự thân phát triển. Đó là một quá trình tiến lên mà nguồn
gốc, động lực của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong của sự
vật, hiện tượng; là một quá trình mà trạng thái tiến lên thông qua các bước
nhảy chuyển hoá từ lượng sang chất và ngược lại; là một quá trình tiến lên
không phải theo đường thẳng, cũng không phải theo đường vòng tròn mà theo đường
“xoáy ốc”, có thể có bước thụt lùi tạm thời, nhưng cái mới sẽ ra đời và chiến
thắng. Đó là khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. Những quan điểm cơ bản
trên đây được trình bày trong những quy luật cơ bản, phổ biến của phép biện
chứng duy vật.
Quan điểm
trên đây của phép biện chứng duy vật hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm về
sự phát triển. Những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc của sự
phát triển ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức chủ quan của con người.
Đó là một phương pháp luận sai lầm nên đã bị thực tiễn lịch sử và khoa học bác
bỏ.
Theo quan
điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự
vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Phát triển, theo quan điểm duy vật biện
chứng, là quá trình tự thân của mọi sự vật, hiện tượng. Do vậy, quá trình đó diễn ra khách quan, độc lập với ý thức con người.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển không
chỉ thừa nhận tính khách quan của sự phát triển mà còn khẳng định tính phổ biến của quá trình này.
Khái quát sự đối lập giữa quan điểm
duy vật và quan điểm duy tâm, giữa quan điểm biện chứng và phép siêu hình về sự
phát triển, V.I.Lênin viết: “Hai quan niệm cơ bản... về sự phát triển (sự tiến
hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát
triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống
nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa
những mặt đối lập ấy)... quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan.
Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá
của sự “tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa
khoá của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự
“chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”[3].
3. í nghĩa phương phỏp luận của quan
điểm biện chứng duy vật về sự phỏt triển
Tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong quá trình vận động và phát triển
không ngừng. Bản chất khách quan đó của hiện thực đòi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
Nếu phát triển là một quá trình đổi
mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên cứu xem xét các sự
vật, hiện tượng của thế giới đang vận động, biến đổi từ dạng này qua dạng khác,
từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế nào. V.I.Lênin chỉ rõ: “Điều
kiện quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên mối liên
hệ lịch sử căn bản, là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện
tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải
qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát
triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”[4].
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận nhận thức
hiện thực, đòi hỏi chúng ta không chỉ thấy sự vật như là cái đang có, mà còn
phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai của nó; không chỉ thống kê được
những khuynh hướng vận động phức tạp của nó, mà còn phải khái quát và làm sáng tỏ
được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo của nó.
Theo đó, việc phát hiện và ủng hộ cái mới và loại
trừ cái cũ đều là công việc hết sức cần thiết trong quá trình phát triển của sự
vật. Điều này hết sức quan trọng trong thực tiễn xã hội. Vấn đề có tính quy
luật là đi liền với cái mới, bao giờ cũng có cái cũ, cái cũ có lúc nhiều hơn,
mạnh hơn, thậm chí còn được che giấu. Vì thế, chỉ có niềm tin vào sự tất thắng
của cái mới chưa đủ, mà phải tỉnh táo, sắc sảo phân biệt cái mới với cái cũ,
cái giả danh là mới; phải thông qua hành động thực tiễn làm chuyển biến tương
quan lực lượng giữa cái cũ và cái mới, làm cho cái mới mạnh lên, cái cũ suy yếu
dần đi trong quá trình phát triển của sự vật.
Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là một quá trình biện
chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính chất quanh co,
phức tạp của mọi quá trình phát triển. Thiếu quan điểm khoa học như trên, người
ta rất dễ bi quan, dao động khi tạm thời gặp khó khăn trắc trở trong quá trình
hoạt động thực tiễn.
Những thành tựu cách mạng nước ta mấy chục năm qua
cũng như những thành công to lớn của công cuộc đổi mới những năm gần đây dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh rằng, cách mạng nước ta
đang đi đúng quy luật của sự phát triển. Kiên định sự nghiệp đổi mới toàn diện
nhưng có nguyên tắc, tỉnh táo cảnh giác vạch trần và kiên quyết đập tan mọi mưu
đồ của các thế lực thù địch đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự
bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
II. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển trong
phát triển kinh tế bền vững ở nước ta hiện nay.
1. Khái lược về
phát triển bền vững kinh tế
Khái niệm "phát triển
bền vững" (PTBV) xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường từ
những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo cáo
"Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi trường và
Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định
nghĩa "là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau".
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về
Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về PTBV tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002
đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát
triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển,
gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát
triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói
giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất
là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng
chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự PTBV là sự tăng trưởng kinh tế ổn định;
thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
Như vậy, phát triển bền vững kinh tế là một bộ phận cơ bản, và là trụ cột
quan trọng của quá trình phát triển bền vững của mỗi quốc gia dân tộc, là nhân
tố chi phối, quyết định đến sự phát triển bền vững trên những lĩnh vực khác.
Theo đó, mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu như:
Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập
cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng
phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay
cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát
triển bền vững về kinh tế. Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình
quân đầu người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững. Có tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp; tăng trưởng kinh tế
phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, đi đôi với thực hiện công bằng và bình
đẳng xã hội, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
2. Sự vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển của
Đảng và Nhà nước ta trong phát triển bền vững nền kinh tế hiện nay.
Bắt nhịp bước đi của thời đại,
đồng thời trung thành với chủ nghĩa Mác - Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán
triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển, Đảng
và Chính phủ đã sớm nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững.
Từ sau Hội
nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de
Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực
hiện Chương trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự
21 cấp địa phương, đồng thời tại các nước này đều đã thành lập các cơ quan độc
lập để triển khai thực hiện chương trình này. Việt Nam và các địa phương trong
cả nước là một trong số những quốc gia tích cực xây dựng và thực hiện Chương
trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Quan điểm PTBV đã được khẳng định
trong Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản
không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển
bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước". Quan điểm PTBV đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI và được bàn thảo trong Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Có thể nói PTBV
đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước. Để thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng,
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai
thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến
hành và thu được những kết quả bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về PTBV đã đi
vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất
nước.
Thực hiện quan điểm của Đảng, căn
cứ vào Chương trình hành động thế kỷ XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam” (còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam).
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang
đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà
nước ta đang phải đối phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện
và gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã
hội; đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược.
Chính phủ cũng đã thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia để chỉ đạo,
giám sát việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Mặc dù việc triển khai tổ chức
thực hiện Chiến lược phát triển bền vững chưa lâu nhưng chúng ta đã đạt được
một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo. Trên
phương diện kinh tế, có thể nêu một số nét nổi bật sau đây:
- Về phương diện nhận thức:
Đảng ta đã có quan điểm đồng bộ, toàn diện về phát triển bền vững
kinh tế. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta xác
định: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững
là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”. Đồng thời đổi
mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi
con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa
học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện thể chế để tháo
gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần
kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao
hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp
tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ
phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã
hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.
Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và
ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và
phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội. Đặc biệt, Đảng ta khẳng định cần xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng
- Về phương diện thực tiễn:
Quá trình thực hiện phát triển bền vững kinh tế, đất nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự
chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô
hình mới và cách làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực
hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện; bảo đảm hài hoà
hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên
và môi trường.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số
thành quả. Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo
hướng hiện đại. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất
công nghiệp tăng, tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Khu vực thương mại,
dịch vụ tăng trưởng khá; cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn có chuyển
biến, mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng; nông nghiệp phát triển toàn
diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây
dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự
chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các vùng, địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển
dịch tích cực; chất lượng nguồn nhân lực bước đầu cải thiện. Đội ngũ doanh nhân
tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển
kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển;
quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá
trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn
những hạn chế, bất cập, chưa thực sự bền vững và hiệu quả, nguồn lực phát triển
còn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có đủ điều kiện vật chất
để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi
ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường. Mức độ chế biến, chế tác nguyên vật liệu trong nền kinh
tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một đơn
vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu
phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều
rộng...trong khi đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai
thác đến mức tới hạn. Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế
giới gây ra nhiều khó khăn cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu
sản xuất như hiện nay, để đạt được một giá trị thu nhập như cũ từ thị trường
thế giới, Việt Nam đã phải bán đi một số lượng hàng hoá hiện vật nhiều hơn
trước. Các mục tiêu phát triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên
còn mâu thuẫn nhau và chưa được kết hợp một cách thoả đáng. Các cấp chính quyền
ở cả Trung ương và địa phương chưa quản lý có hiệu quả việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
KẾT LUẬN
Nguyên lý về sự phát triển là bộ phận căn bản, là tư tưởng cơ bản,
xuyên suốt và cốt lõi của phép biện chứng duy vật. Nguyên lý xuất phát của phép
biện chứng duy vật là nguyên lý xem thế giới các sự vật, hiện tượng như một chỉnh
thể động có khả năng tự phát triển theo những quy luật khách quan, vốn có và phổ
biến của nó. Nội dung bao trùm của phép biện chứng duy vật là ở sự luận giải về
nguồn gốc, động lực, trạng thái, khuynh hướng cũng như tính phong phú muôn vẻ
trong sự vận động chuyển hoá và phát triển không ngừng của thế giới hiện thực.
Nói cách khác, phép biện chứng duy vật, xét về thực chất là học thuyết sâu sắc
nhất và không phiến diện về sự phát triển. Có thể khẳng định, tư tưởng cơ bản,
xuyên suốt và cốt lõi của phép biện chứng duy vật là tư tưởng về sự phát triển. Nguyên lý xuất phát của phép biện chứng
duy vật là nguyên lý xem thế giới các sự vật, hiện tượng như một chỉnh thể động
có khả năng tự phát triển theo những quy luật khách quan, vốn có và phổ biến của
nó. Nội dung bao trùm của phép biện chứng duy vật là ở sự luận giải về nguồn gốc,
động lực, trạng thái, khuynh hướng cũng như tính phong phú muôn vẻ trong sự vận
động chuyển hoá và phát triển không ngừng của thế giới hiện thực. Nói cách
khác, phép biện chứng duy vật, xét về thực chất là học thuyết sâu sắc nhất
và không phiến diện về sự phát triển. Vì thế, việc nghiên cứu
toàn diện và vận dụng phép biện chứng duy vật có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm
xây dựng thế giới quan duy vật triệt để và hệ phương pháp phổ biến, khoa học
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, trong đó có thực tiễn xây dựng, phát
triển kinh tế bền vững ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Để vận dụng hiệu quả quan
điểm về sự phát triển của phép biện chứng duy vật vào quá trình phát triển kinh
tế bền vững ở nước ta hiện nay, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các chủ thể kinh tế -
xã hội nhận thức sâu sắc giá trị, ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này,
đồng thời triển khai đồng bộ, toàn diện trong thực tiễn xây dựng và phát triển
kinh tế, gắn với giững ổn định chính trị, an toàn xã hội và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới, hoàn
thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm
quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của
Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh
tế và phát triển kinh tế - xã hội. Có như vậy mới tạo được sự phát triển kinh
tế nhanh và bền vững ở nước ta hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét