Trong các Đảng Cộng sản, bệnh “tả
khuynh” xuất hiện ngay sau khi Đảng ra đời. Đấu tranh chống bệnh này trong các
đảng là nhiệm vụ tất yếu để tập hợp quần chúng lao động đi theo chủ nghĩa cộng
sản. Từ năm 1903, Đảng Bônsêvích Nga đã đấu tranh quyết liệt chống đầu óc cách
mạng tiểu tư sản trong nội bộ Đảng. Tháng 5 năm 1918, Lênin viết tác phẩm Bệnh
ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản, tác phẩm phê phán sai lầm của
phái “tả” trong nội bộ Đảng Bônsêvích Nga. Sau khi các Đảng Cộng sản ra đời,
bệnh “tả khuynh” đã phát sinh trên phạm vi quốc tế.
I-
Hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Chủ nghĩa tư bản đang trong cơn
tổng khủng hoảng sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Chiến
tranh là kết quả của mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc, làm cho mâu thuẫn đó
ngày càng gay gắt và nảy sinh mâu thuẫn mới trong nội bộ mỗi nước: mâu thuẫn
giữa tư sản với vô sản, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Chủ
nghĩa tư bản vốn đã khủng hoảng lại càng khủng hoảng trầm trọng. Tình trạng
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản làm xuất hiện tình thế cách mạng ở hàng loạt
nước. Dự đoán thiên tài của Lênin là biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến
cách mạng đã được chứng minh trong thời kỳ này.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới đã nổ ra và thắng lợi ở Nga. Nước Nga lúc đó là khâu yếu nhất trong
toàn bộ sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công là sự kiện lịch sử vô cùng to lớn, là dấu mốc mở đầu thời đại mới và cung
cấp cho cách mạng thế giới mẫu mực kiệt xuất về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười, cách mạng thế giới phát triển rầm rộ, phong trào công nhân phát triển
nhanh chóng, ở nhiều nước điều kiện khách quan và chủ quan của cách mạng đã
chín muồi. Ở hàng loạt nước Đảng Cộng sản ra đời. Các Đảng Cộng sản ra đời trên
cơ sở phân hóa của Đảng dân chủ - xã hội. Những người gia nhập Đảng Cộng sản về
cơ bản đã đoạn tuyệt lập trường cơ hội chủ nghĩa, nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng
của Đảng dân chủ - xã hội trên một loạt vấn đề, kể cả những vấn đề quan trọng.
Các Đảng Cộng sản ra đời đề ra nhu
cầu thành lập quốc tế cộng sản mới. Ngày 5 tháng 3 năm 1919, tại Mátxcơva, Đại
hội thành lập Quốc tế Cộng sản đã được tổ chức. Quốc tế mới ra đời tức là nhiệm
vụ thứ nhất của phong trào cộng sản đã hoàn thành về cơ bản, thu hút được đội
tiên phong toàn thế giới đi theo cách mạng vô sản.
Trong các Đảng Cộng sản, bệnh “tả
khuynh” xuất hiện ngay sau khi Đảng ra đời. Đấu tranh chống bệnh này trong các
đảng là nhiệm vụ tất yếu để tập hợp quần chúng lao động đi theo chủ nghĩa cộng
sản. Từ năm 1903, Đảng Bônsêvích Nga đã đấu tranh quyết liệt chống đầu óc cách
mạng tiểu tư sản trong nội bộ Đảng. Tháng 5 năm 1918, Lênin viết tác phẩm Bệnh
ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản, tác phẩm phê phán sai lầm của
phái “tả” trong nội bộ Đảng Bônsêvích Nga. Sau khi các Đảng Cộng sản ra đời,
bệnh “tả khuynh” đã phát sinh trên phạm vi quốc tế.
Lênin
đã hoàn thành tác phẩm trước ngày Đại hội II của Quốc tế Cộng sản khai mạc. Khi
đến Đại hội, mỗi đại biểu đã có trong tay tác phẩm này. Trong hoàn cảnh lịch sử
đó, tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản ra
đời đã đáp ứng được đòi hỏi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
II- Những nội dung lý luận chủ
yếu của tác phẩm
1. Ý nghĩa quốc tế của Cách
mạng Nga
Lênin mở đầu tác phẩm bằng cách
nêu ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Nga. Đó là một việc đặc biệt quan trọng. Thời
kỳ này, bọn cơ hội luôn luôn tìm cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Chúng cho rằng
chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,
khi chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc thì chủ nghĩa Mác không
còn phù hợp nữa; và cho rằng, chủ nghĩa Mác đã lỗi thời. Khi Cách mạng Nga
thành công, bọn cơ hội chủ nghĩa tìm mọi cách xuyên tạc, bưng bít ý nghĩa của
cuộc cách mạng đó. Chúng cho rằng, Cách mạng Tháng Mười là hiện tượng đặc thù
của nước Nga, kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng đó không thể áp dụng cho các
nước khác trên thế giới. Bọn cơ hội chủ nghĩa đã phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa của
Cách mạng Nga. Phủ nhận ý nghĩa của Cách mạng Nga thực chất là phủ nhận chủ
nghĩa Mác. Sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác đã được chứng minh bằng thực tiễn Cách
mạng Tháng Mười, thực tiễn này đã đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác của
bọn cơ hội chủ nghĩa.
Ý nghĩa quốc tế của Cách mạng Tháng Mười
được Lênin đề cập theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Nghĩa rộng: từ cả những nét chủ
yếu và thứ yếu của Cách mạng Nga đều có ý nghĩa quốc tế và nó tác động đến tất
cả các nước.
- Nghĩa hẹp: Những sự kiện diễn ra
của Cách mạng Nga có ý nghĩa tất yếu lịch sử là sẽ tái diễn trên phạm vi quốc
tế.
Cách mạng Tháng Mười đã chặt đứt sợi dây
chuyền của chủ nghĩa đế quốc ở khâu yếu nhất. Nó mở đầu thời đại mới - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nó đánh dấu chủ nghĩa xã hội
khoa học từ mơ ước đã trở thành hiện thực.
Cách mạng Nga đã giải quyết mâu thuẫn
gay gắt của thế giới lúc đó tập trung ở Nga, mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản,
mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
“Tấm gương Nga chỉ ra cho tất cả
các nước thấy một cái gì hoàn toàn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của
họ, tức là cách mạng vô sản tất cả các nước đều không tránh khỏi con đường mà
nước Nga đã trải qua”.
Những người cộng sản ở tất cả các
nước không chỉ thừa nhận ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, mà quan trọng hơn là
việc vận dụng kinh nghiệm của cuộc cách mạng đó vào tình hình cụ thể của từng
nước để xác định đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn. Lênin muốn làm cho
những người cộng sản quan tâm hơn nữa đến việc rút ra từ Cách mạng Tháng Mười
những bài học kinh nghiệm một trong những bài học quan trọng nhất đó là bài học
về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng vô sản.
Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
với chiến lược, sách lược đúng đắn thì cách mạng vô sản không thể nổ ra
và thắng lợi được.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin xem xét vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ
thống chuyên chính vô sản.
2.
Vai trò của Đảng trong hệ thống chuyên chính vô sản:
Để khẳng định vai trò của Đảng
trong hệ thống chuyên chính vô sản, Lênin đã phê phán quan điểm sai lầm của
những người cộng sản “tả khuynh”.
Trước hết là phê phán xu hướng “tả
khuynh” ở Đức (phái đối lập). Phái đối lập thừa nhận chuyên chính vô sản nhưng
phủ nhận vai trò của Đảng. Họ cho rằng, giai cấp công nhân không thể phá huỷ
được nhà nước tư sản nếu không phá huỷ nền dân chủ tư sản, và không thể tiêu
diệt nền dân chủ tư sản nếu không phá huỷ Đảng. Lênin coi đó là điều vô cùng
ngu xuẩn, không thể tha thứ được.
Những người cộng sản “tả khuynh”
này đã tự cho mình là những người mácxít đúng đắn nhất. Những lý lẽ của phái
đối lập đã chứng tỏ rằng, họ không hiểu những điều sơ đẳng nhất của chủ nghĩa
Mác.
Họ đã xuất phát từ mô hình của chủ
nghĩa cộng sản để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng: chủ nghĩa cộng sản ở giai
đoạn cao thì xã hội không còn giai cấp, không còn Đảng. Đó còn là mục đích lý
tưởng của Đảng, nhưng để đi đến chủ nghĩa cộng sản ở giai đoạn cao thì phải
trải qua thời kỳ quá độ; thời kỳ đó dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể
của từng nước. Đó là con đường mà nước Nga đã đi và cũng là con đường chung mà
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở tất cả các nước đều phải trải qua.
Quan điểm của phái đối lập cho
rằng, chủ nghĩa tư bản ở Đức sẽ nhảy lên giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản
không trải qua bước quá độ cho nên phải phá huỷ Đảng. Đây là sai lầm về đường
lối cách mạng, thể hiện sự ấu trĩ cả về lý luận và thực tiễn. Những người cộng
sản “tả khuynh” đã không hiểu gì về quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và
càng không hiểu gì về Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội: vai
trò của Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng tăng lên,
đó là quy luật phát triển của Đảng.
Để đảm bảo cách mạng xã hội chủ
nghĩa thắng lợi đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng mácxít thực sự cách mạng,
dày dặn kinh nghiệm trong đấu tranh giai cấp và được sự tín nhiệm cao cả của
quần chúng.
Lênin khẳng định: “Không có một
Đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu tranh, không có một Đảng được sự tín
nhiệm của tất cả những phần tử trung thực trong giai cấp nói trên, không có một
Đảng biết nhận xét tâm trạng quần chúng và biết tác động vào tâm trạng đó thì
không thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh ấy được”. Tư tưởng này của
Lênin đã chỉ ra cho những ai chưa biết suy nghĩ hay chưa có điều kiện để suy
nghĩ hiểu rằng: sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chuyên chính vô sản là tất
yếu khách quan.
Để thực hiện được quyền lãnh đạo
của mình thì Đảng phải không ngừng được củng cố và phát triển. Vì vậy, Lênin đã
đề cập tới một số điểm về xây dựng nội bộ Đảng.
3. Vấn đề xây dựng nội bộ Đảng
đã được đề cập trong tác phẩm
a) Việc xác định cương lĩnh, đường
lối chính trị của Đảng
Cương lĩnh, đường lối, chính sách
đúng đắn là nguyên nhân cơ bản đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc định ra đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn
lại càng quan trọng. Bởi vì, sai lầm về đường lối trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội có tác hại lâu dài đến toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Những người cộng sản
“tả khuynh” đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong vấn đề này thể hiện ở một loạt
vấn đề:
- Trước hết đối với vấn đề lãnh
tụ, Đảng, giai cấp, quần chúng. Họ đã dùng các khái niệm này nhưng không hiểu
mối quan hệ giữa các khái niệm đó, đã đối lập các khái niệm.
Họ thừa nhận giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyên chính vô sản nhưng họ đặt vấn đề ai phải
thi hành chuyên chính vô sản: Đảng Cộng sản hay giai cấp vô sản; chuyên chính
của Đảng hay chuyên chính của giai cấp; chuyên chính Đảng của các lãnh tụ hay
chuyên chính của quần chúng. Thực chất quan điểm của họ nhằm chia rẽ nội bộ
Đảng, phá vỡ sự thống nhất của Đảng.
Lênin đã phê phán: Cách lập luận đó là
mớ hỗn độn cũ rích, là luận điệu “tả khuynh” ấu trĩ. Phát biểu quan điểm của
mình về các khái niệm đó, Người chỉ rõ: quần chúng được chia thành những giai
cấp, những giai cấp này lại do các chính đảng lãnh đạo, còn đứng đầu các đảng
là những nhà lãnh đạo (các lãnh tụ). Các khái niệm này quan hệ chặt chẽ với
nhau, kết hợp thành một chỉnh thể không thể chia cắt được. Tuy nhiên, giữa các
khái niệm đó cũng cần có sự phân biệt rõ, lẫn lộn giữa các khái niệm đó cũng là
sai lầm. Lênin đã chỉ ra sự khác nhau đó: Đảng không phải là toàn bộ giai cấp,
Đảng là đội tiên phong của giai cấp, Đảng còn khác giai cấp ở trình độ giác
ngộ, lẫn lộn giữa Đảng và giai cấp sẽ dẫn đến hạ thấp vai trò lãnh đạo của
Đảng.
Lãnh tụ do Đại hội Đảng bầu ra, Đại hội
bầu Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính
trị và Ban Bí thư. Lãnh đạo công việc hàng ngày của Đảng giao cho Bộ Chính trị
và Ban Bí thư. Lênin đã đề cập đến nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng.
Lãnh tụ còn khác Đảng ở yêu cầu về phẩm
chất và năng lực, Lênin đòi hỏi lãnh tụ phải là những người có uy tín nhất, có
kinh nghiệm nhất. Có những lãnh tụ như vậy mới lãnh đạo được Đảng, giai cấp và
quần chúng.
Lênin đánh giá đúng vai trò của
lãnh tụ, đồng thời kiên quyết lên án tệ sùng bái cá nhân.
Những người cộng sản “tả khuynh”
còn chia rẽ nội bộ Đảng bằng việc nêu ra khẩu hiệu “Đả đảo lãnh tụ”, nấp dưới
khẩu hiệu này, họ đưa những lãnh tụ mới của họ vào để thay thế những lãnh tụ cũ
của Đảng Cộng sản Đức. Đó là một sai lầm lớn.
- Vấn đề hoạt động trong công đoàn phản
động.
Những người cộng sản “tả khuynh”
coi công đoàn là một tổ chức phản động. Theo họ, những người cộng sản không
cần, không được phép hoạt động trong công đoàn; họ tạo ra một tổ chức mới gọi
là “Hội liên hiệp công nhân”.
Những người cộng sản “tả khuynh”
luôn nói đến khái niệm quần chúng nhưng họ đã lạm dụng khái niệm đó và không
hiểu mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Họ chủ trương rằng, những người cộng
sản không tham gia công đoàn. Điều đó có nghĩa là tách Đảng với quần chúng, làm
cho Đảng xa rời quần chúng.
Lênin đã khẳng định: Công đoàn là tổ
chức rộng rãi nhất để tập hợp công nhân. Công đoàn là trường học của chủ nghĩa
cộng sản, Đảng liên hệ với quần chúng thông qua công đoàn, công đoàn là tổ chức
quần chúng nhưng phải có đảng viên hoạt động trong đó để thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với tổ chức quần chúng. Đảng liên hệ với quần chúng không chỉ
thông qua tổ chức công đoàn mà còn thông qua các tổ chức khác như: hợp tác xã,
đoàn thanh niên, hội phụ nữ và các tổ chức bảo hiểm. Ngoài những tổ chức trên,
Đảng còn liên hệ với quần chúng bằng những hội nghị công nhân và nông dân.
Những hình thức tổ chức trên thể hiện
Đảng dân chủ với quần chúng.
Đảng cầm quyền phải bằng mọi hình thức
tổ chức nhằm sử dụng và phát huy cao nhất sức mạnh của quần chúng trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin đã khẳng định: “Chỉ có độc một mình đội
tiên phong thôi thì không thể thắng nổi. Ném độc một mình đội tiên phong vào
một cuộc chiến đấu quyết định, khi mà toàn thể giai cấp, khi mà quần chúng đông
đảo hoặc chưa có thái độ trực tiếp ủng hộ đội tiên phong, hoặc chưa có ít ra là
một thái độ trung lập có thiện cảm đối với đội tiên phong, khiến họ hoàn toàn
không thể ủng hộ kẻ địch được, thì đó không những là một điều dại dột, mà còn
là một tội ác nữa”.
Lênin cũng chỉ ra tính phản động của
công đoàn. Cái gọi là tính phản động chỉ là những nhược điểm, khuyết điểm còn
tồn tại trong công nhân: tính chất phường hội, đầu óc thủ cựu, tư tưởng nghề
nghiệp hẹp hòi và cũng có cả những khuynh hướng phi chính trị. Tính phản động
của công đoàn là không tránh khỏi trong thời kỳ chuyên chính vô sản. Chỉ khi
nào công đoàn phát triển thành công đoàn công nghiệp thì không còn tính phản động
nữa, đó là giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, đó cũng là mục đích tương lai
của giai cấp vô sản. Trong điều kiện hiện tại mà muốn đạt ngay kết quả của
tương lai thì không thể có được. Lênin coi sự mong muốn đó như người ta muốn
dạy toán cao cấp cho trẻ em 4 tuổi.
Từ sự phân tích nên, Lênin đòi hỏi
người cộng sản nhất thiết phải hành động trong công đoàn và phải công tác ở bất
cứ nơi nào có quần chúng, kể cả những tổ chức phản động nhất.
- Việc tham gia nghị viện tư sản
Những người cộng sản “tả khuynh”
cho rằng, chế độ nghị viện đã quá thời cả về phương diện lịch sử và phương diện
chính trị. Đứng về phương diện lịch sử thế giới mà
nói thì “chế độ đại nghị” đã quá thời vô
phương diện lịch sử. Sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công thì thời đại nghị
viện tư sản đã kết thúc, thời đại chuyên chính vô sản bắt đầu, nhưng trong vấn
đề sách lược thực tiễn lại tính theo quy mô thế giới là một sai lầm hết sức
nghiêm trọng về lý luận. Chẳng hạn như ở Đức khi chưa có chuyên chính vô sản mà
lại khẳng định nghị viện tư sản là quá thời thì quan điểm như vậy là sai lầm cả
về thực tiễn và lý luận. Những người cộng sản “tả khuynh” đã lẫn lộn giữa chủ
quan và khách quan. Họ đem ý muốn chủ quan thay thế cho việc thực hiện khách
quan. Đây là sai lầm rất nguy hiểm của người cách mạng.
Lênin đã khẳng định: Đảng Cộng sản phải
tham gia nghị viện tư sản.
Nghị viện tư sản là tổ chức phản
cách mạng do giai cấp tư sản lập ra nhưng quần chúng lạc hậu còn tin ở nghị
viện, coi nghị viện là đại biểu chân chính của họ cho nên người cộng sản phải
tham gia vào tổ chức đó để giáo dục, giác ngộ, thức tỉnh quần chúng.
Người cộng sản tham gia nghị viện
không phải là để duy trì tổ chức này mà để đấu tranh xóa bỏ nghị viện.
Người cộng sản không tham gia nghị viện
tức là bỏ rơi quần chúng lạc hậu và như vậy sẽ không bao giờ giải tán được nghị
viện.
- Vấn đề thỏa hiệp:
Những người cộng sản “tả khuynh”
nêu khẩu hiệu “Không bao giờ thỏa hiệp” và không chấp nhận một sự liên
minh dựa dẫm nào.
Lênin cho rằng: Đấu tranh cách
mạng có lúc phải thỏa hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn
thuận lợi và dễ dàng mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những
hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên
minh, thỏa hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết
có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi
cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công giành những thắng lợi lớn hơn.
b) Vấn đề kỷ luật của Đảng
Trong tác phẩm này, Lênin nhấn
mạnh vai trò kỷ luật trong Đảng: Đảng có kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ mới thực
hiện được sự lãnh đạo tập trung thống nhất, mới xây dựng được khối đoàn kết
trong nội bộ Đảng. Có kỷ luật mới tăng cường được sức mạnh của Đảng, mới chiến
thắng được mọi kẻ thù. Lênin coi kỷ luật là một trong những điều kiện căn bản
để đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng. Người nói: “Những người Bônsêvích sẽ
không giữ vững được chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay
cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu Đảng ta không có kỷ luật hết sức
nghiêm minh, kỷ luật sắt thực sự”.
Đảng có kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ mới
vạch mặt và đuổi được bọn cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc ra khỏi Đảng, làm
trong sạch hàng ngũ Đảng, và mới chống được những tư tưởng phi vô sản ảnh hưởng
ở trong Đảng. Lênin coi kỷ luật của Đảng là thứ vũ khí để Đảng thực hiện quyền
lãnh đạo của mình. Người nhấn mạnh: “kẻ nào làm yếu - dù chỉ là chút ít -
kỷ luật sắt trong Đảng của giai cấp vô sản (nhất là trong thời kỳ chuyên chính
của nó) là thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản”.
Lênin nêu ba điều kiện để thực
hiện kỷ luật trong Đảng:
- Sự giác ngộ và lòng trung thành
với cách mạng, tinh thần kiên cường, tính hy sinh và chí khí dũng cảm của đội
tiên phong.
- Đội tiên phong biết liên hệ, gần
gũi, hòa mình với quần chúng rộng rãi.
- Đội tiên phong có sự lãnh đạo
chính trị, có chiến lược và sách lược đúng đắn và được quần chúng tin tưởng vào
sự đúng đắn đó.
Thiếu những điều kiện trên thì
không thể thực hiện được kỷ luật trong Đảng và mọi ý đồ thiết lập kỷ luật trong
Đảng chỉ là những câu nói suông mà thôi.
c) Tự phê bình và phê bình
Lênin coi tự phê bình và phê bình
là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để xem xét Đảng. Chỉ có Đảng mácxít
chân chính - Đảng cách mạng thật sự mới có thái độ đúng đắn đối với sai lầm của
mình. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng có khuyết điểm cũng là bình thường, điều
quan trọng là có thái độ đúng đắn đối với sai lầm của mình hay không, đó mới là
điều quan trọng. Lênin đòi hỏi rằng, trước những sai lầm của mình, Đảng phải
công khai thừa nhận sai lầm, phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu
những biện pháp để sửa chữa sai lầm. Đó là thái độ nghiêm túc của Đảng.
Chỉ có Đảng nghiêm túc như vậy mới
thực sự là Đảng mácxít chân chính.
Những người cộng sản “tả khuynh”
đã không có thái độ đó, đã không nghiêm túc trước những sai lầm của mình cho
nên họ không phải là Đảng của giai cấp, không phải là Đảng của quần chúng, và
chỉ là nhóm nhỏ mang tính bè phái. Đối với người đảng viên cộng sản, Lênin đòi
hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người đảng viên phải thực hiện tốt tự phê
bình. Người nói: “Người thông minh không phải là người không phạm sai lầm...
Người nào phạm sai lầm, mà không nặng lắm, và biết sửa chữa một cách dễ dàng và
nhanh chóng thì người đó người thông minh”.
Đối với Đảng cũng như đối với đảng
viên, không có thái độ đúng đắn đối với khuyết điểm thì chỉ đi đến những khuyết
điểm lớn hơn mà thôi.
Lênin đã khẳng định điều đó: “cứ
giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa cho nó, “đưa nó đến chỗ tột
cùng” thì từ một sai lầm nhỏ, người ta luôn luôn có thể làm cho nó thành một
sai lầm lớn ghê gớm”.
d) Vấn đề phát triển Đảng
Lênin coi phát triển Đảng là một
trong những công tác quan trọng nhằm xây dựng và củng cố Đảng. Song, phát triển
Đảng phải đảm bảo không để cho bọn cơ hội và bọn phản cách mạng tìm cách chui
vào Đảng.
Trong cuộc chiến đấu giữa cái sống và
cái chết, bọn cơ hội chủ nghĩa không bao giờ đi theo những người cộng sản mà
vào Đảng. Nhưng trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên có tổ chức, có quyền
thì hấp dẫn đối với bọn cơ hội chủ nghĩa, và do đó, cũng có thể chui được vào
Đảng nếu như các tổ chức Đảng sơ hở trong công tác tổ chức.
Theo quan điểm của Lênin, phát
triển Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền phải hết sức chặt chẽ về tiêu chuẩn
để ngăn ngừa những phần tử cơ hội và bọn phản cách mạng tìm cách chui vào Đảng
để phá hoại. Sau Cách mạng Tháng Mười thành công, Lênin chỉ kêu gọi những công
nhân, nông dân, người lao động thật sự tin theo chủ nghĩa cộng sản vào Đảng. Và
Đảng chỉ mở rộng trong lúc cuộc nội chiến gay go quyết liệt nhất, trong những
lúc tình hình khó khăn nhất. Trong khó khăn thử thách mới phân biệt được người
cách mạng thực sự với kẻ cơ hội chủ nghĩa, khó khăn thử thách là thước đo sự
giác ngộ và lòng trung thành của người cách mạng.
đ) Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là
quy luật phát triển của Đảng
Lênin đã lý giải và chứng minh tính quy
luật của cuộc đấu tranh này bằng thực tiễn của Đảng Bônsêvích Nga đấu tranh
triệt để không điều hòa chống hai phía chủ nghĩa cơ hội “hữu khuynh” và chủ
nghĩa giáo điều “tả khuynh”. Đảng Bônsêvích đã trưởng thành, củng cố, tôi luyện
trong cuộc đấu tranh đó. Đây không phải là hiện tượng riêng của Nga mà là quy
luật phát triển của các Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa cơ hội là kẻ thù chung của
phong trào cộng sản quốc tế và là kẻ thù của mỗi Đảng Cộng sản. Mặt khác, trong
nội bộ mỗi Đảng không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi các trào lưu tư tưởng phi vô
sản. Sự ảnh hưởng đó biểu hiện dưới mọi màu sắc khi “hữu”, khi “tả” cho nên
không đấu tranh chống cả hai khuynh hướng đó thì Đảng không thể trở thành lực
lượng lãnh đạo giai cấp công nhân được và không thể duy trì được sự lãnh đạo
tập trung thống nhất trong Đảng. Không đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì
Đảng không thể tồn tại và phát triển được.
Trong tác phẩm này, Lênin chống chủ
nghĩa cơ hội cả hai phía nhưng chủ yếu là đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội “tả
khuynh”. Công lao to lớn của Lênin đối với phong trào cộng sản quốc tế là đã
phát hiện ra chủ nghĩa cơ hội “tả khuynh” trong các Đảng Cộng sản trẻ tuổi ngay
từ khi nó mới hình thành.
Năm 1920, Lênin xem bệnh “tả
khuynh” là bệnh ấu trĩ của Đảng Cộng sản trẻ tuổi, về sau, Lênin đã nhìn
nhận căn bệnh ấy như một trào lưu hình thành rõ ràng và cực kỳ nguy hiểm trong
phong trào cộng sản quốc tế.
III- Ý nghĩa thực tiễn của tác
phẩm
1. Đối với phong trào cộng sản
quốc tế
Tác phẩm ra đời đáp ứng đòi hỏi
cấp bách của phong trào cộng sản quốc tế đương thời, đã giải đáp được thắc mắc
và uốn nắn lệch lạc của phong trào. Thời kỳ này phong trào cộng sản phát triển
rất nhanh và mạnh. Cùng với sự phát triển của phong trào, những khuynh hướng
sai lầm cũng xuất hiện, nếu như không có sự uốn nắn thì có nguy cơ đẩy phong
trào đi chệch con đường đúng đắn, những tư tưởng của tác phẩm này đã đưa phong
trào cách mạng thế giới phát triển và giai cấp vô sản ngày càng trưởng thành.
Sự phê phán của Lênin đã khắc phục được những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa
cộng sản “tả khuynh”. Sự phê phán đó ngày nay vẫn còn nguyên giá trị .
2. Đối với Đảng ta
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam cũng như trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã thấm nhuần những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và những nguyên lý trong tác phẩm
này, do đó đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.
3. Đối với công tác xây dựng
Đảng
Nguyên lý trong tác phẩm này đã
làm cơ sở trong việc xác định nội dung công tác xây dựng Đảng. Đảng ta đã coi
trọng cả ba mặt xây dựng Đảng: xây dựng Đảng về chính trị, về tư tưởng và về tổ
chức. Nội dung này mang tính kỷ luật trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta còn
khẳng định xây dựng Đảng về chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Xây dựng Đảng về chính trị là xây
dựng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn. Để đáp
ứng đòi hỏi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đề ra Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với trí tuệ
của toàn Đảng, cương lĩnh sẽ bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Những quan điểm, tư tưởng của
Lênin về tự phê bình, phát triển Đảng, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đã có ý
nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta. Hiện nay, những vấn
đề đó vẫn thường xuyên thực hiện trong các tổ chức Đảng. Đó là những công tác
không thể thiếu được để không ngừng sáng tạo năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng.
BBT
0 nhận xét:
Đăng nhận xét