Hơn 90 năm qua, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi Đảng đã tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng ta đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, đó là nhận định không chỉ của Đảng, nhân dân ta mà còn là của bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay, các thế lực thù địch chống Việt Nam thường xuyên tuyên truyền luận điệu: “Ở quốc gia mà chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì mất dân chủ, không thể đưa đất nước, dân tộc lớn mạnh”. Những thông tin thù địch, trái chiều, trên các blog có nội dung xấu rêu rao tư tưởng dân chủ tư sản, bôi son, tô hồng về những thành tựu của các nước tư sản theo chế độ đa nguyên, đa đảng, hay trực tiếp nói xấu, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhiều trên mạng Internet và ác phương tiện thông tin. Mục đích, nhằm kích động đa nguyên, đa đảng, từng bước chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam và phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quốc gia, dân tộc.
Qua quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam cho thấy đó là một tất yếu khách quan. Đây là sản phẩm của lịch sử chứ
không phải là ý chí của cá nhân hay một tổ chức đơn thuần. Bởi vậy thực tiễn đã
chỉ ra: vào những năm đầu thế kỷ XX, hàng loạt cuộc khởi nghĩa do giai cấp nông
dân, các sĩ phu yêu nước lãnh đạo lần lượt thất bại. Các đảng chính trị đại
diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước ta lúc bấy giờ tranh đoạt vũ đài
lịch sử dân tộc. Từ đảng của giai cấp nông dân như Nghĩa Hưng (1907), đảng của
giai cấp tư sản, địa chủ như Lập hiến (1923)... tới đảng của tầng lớp thanh
niên, sinh viên, trí thức, tiểu tư sản như: Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng Thanh
niên, Đảng An Nam độc lập (1927), Việt Nam quốc dân đảng (1927)... hoặc đảng: Đại Việt quốc gia xã hội đảng, Đại
Việt quốc dân đảng của của bọn tay sai đế quốc Pháp và phát xít Nhật; các đảng
phản động như: Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh
hội (Việt Cách)... Trong số ấy, chỉ một số đảng mong chấn hưng đất nước nhưng
“lực bất tòng tâm”, một số âm mưu, toan tính biến đất nước thành nơi thử nghiệm
những mưu đồ chính trị của giai cấp, tầng lớp họ. Nhưng do không đủ sức lãnh
đạo dân tộc, các đảng này hoặc tự phải diệt vong hoặc bị giải tán. Trong lúc
này, nước ta đã hình thành nhiều tổ chức đảng phái khác nhau... Nhưng thời điểm
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, từng bước nhận được sự tín nhiệm, yêu mến
của các tầng lớp nhân dân, từng bước lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là
đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc
Việt Nam, là người lãnh đạo Như vậy, cần
khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng cùng tham gia
lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng nhất, chân
chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng nước ta và tổ chức mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Qua thử thách của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ XX,
dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người
duy nhất dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc. Chính nhân dân ta đã lựa chọn
duy nhất một đảng lãnh đạo bằng những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự
nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân
tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được
sống trong “tự do, hạnh phúc”.
Vậy, câu hỏi đặt ra là: có
phải một đảng cầm quyền là mất dân chủ
hay không?
Vào những năm 90, thế kỷ XX sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội
ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu thì một trong những nguyên
nhân gây ra đó là: có lúc, có nơi một số đảng cộng sản cầm quyền gây mất dân
chủ trong nội bộ đảng và trong quá trình lãnh đạo đất nước. Sự việc trên, Đảng
ta đã nhận định một cách khách quan, biện chứng và thẳng thắn chỉ ra nguyên
nhân này và cho rằng đây là một bài học trong quá trình lãnh đạo đất nước, như
V.I.Lênin đã khẳng định: Quan liêu và xa dân là nguy cơ của bất cứ một đảng cầm
quyền nào, nhưng sẽ là sai lầm, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng đơn lẻ mà suy ra
bản chất của vấn đề.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội, tương ứng với nó là 5 hình thái dân chủ từ cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mỗi hình thái dân chủ sau là những nấc thang phát triển cao hơn, dựa trên sự kế
thừa của nền dân chủ trong xã hội trước đó. Với tư cách là hình thức chế độ
chính trị của đất nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước,
nên không bao giờ có một thứ dân chủ “thuần túy”, dân chủ bao giờ cũng mang bản
chất giai cấp sâu sắc. Quy luật ấy cũng phản ánh khát vọng nghìn đời của nhân
loại muốn thoát khỏi mọi sự tha hóa để vươn đến tiến bộ và tự do cùng với việc
nhận thức ra logic vận động của xã hội loài người. Hướng đến chủ nghĩa xã hội
là hướng đến một nền dân chủ tiến bộ và hoàn thiện. Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa
xã hội là cuộc đấu tranh vì một chế độ dân chủ chân chính nhất. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa và dân chủ tư sản khác nhau về bản chất và về trình độ với tư cách là
những xã hội nối tiếp nhau trong nấc thang từ thấp lên cao của xã hội loài
người.
Chính vì thế, nền dân chủ vô sản khi và
chỉ khi được thực hiện bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của
giai cấp vô sản đối với toàn thể xã hội thông qua đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản. Chỉ giai cấp vô sản cùng với đảng tiên phong của mình lãnh đạo nhân
dân lao động với mục tiêu xóa bỏ chế độ bóc lột và nô dịch, giải phóng giai
cấp, giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải phóng con người mới có khả
năng thiết lập được một nền chuyên chính vừa đảm bảo dân chủ cũng như các lợi
ích căn bản khác của đông đảo quần chúng lao động.
Chúng ta thấy, về hình thức thì các đảng chính trị ở các nước tư
bản trước kia cũng như hiện nay đều tự do, bình đẳng trong cuộc đấu tranh nghị
trường và đều có khả năng trở thành đảng cầm quyền; nhưng, trong thực tế thì
chỉ có các đảng lớn, có thế lực, được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản độc
quyền mới có khả năng chiến thắng. Mặt khác, chế độ đa đảng ở phương Tây, xét
trong thực chất, cũng là dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, vì tất cả các đảng
cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản. Tuy cơ chế đa đảng đưa lại một số tác
động tích cực nhất định cho các đảng tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo
điều kiện cho họ khả năng tránh nguy cơ chuyên quyền, độc đoán thông qua cọ
xát, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Nhưng,
thể chế đa đảng này cũng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục
bộ chỉ biết phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải - trái,
đúng - sai. Hệ quả là làm xuất hiện một nền chính trị vì quyền lực và một công nghệ
đấu đá chính trị trên những lợi ích chính đáng của đông đảo cử tri.
Ta thấy, vị trí của tiền bạc ngày càng trở
thành yếu tố quyết định đến tính giai cấp của nền dân chủ tư bản phương Tây
trong đời sống chính trị. Cái gọi là “nền dân chủ Mỹ” thật ra là nền dân chủ
của nhà giàu. Nếu một chính quyền được tạo lập bởi đồng tiền thì tất yếu phải
hướng đến phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ đâu phải là một chính quyền của tất
cả cộng đồng xã hội mà các lý luận gia của họ rêu rao. Như vậy, dân chủ hay
không dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc có áp
dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong từng
thời điểm cụ thể, nhà nước nói riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng
lãnh đạo. Có hay không có dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay
thấp, tất cả phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền chứ không phụ thuộc vào
số lượng nhiều hay ít các đảng phái chính trị.
Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là quy luật hình thành và phát triển, đồng
thời là tôn chỉ mục đích hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là người đại diện chân chính duy nhất cho lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền
sống, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc. Đó là các quyền sử dụng tư liệu sản
xuất, có công ăn việc làm, quyền học tập và hưởng thụ văn hóa, quyền tham gia
quản lý nhà nước, giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và cơ quan nhà nước,
quyền đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách, pháp luật, bày tỏ ý kiến
về các hiện tượng tích cực và tiêu cực trong đời sống xã hội... Vì vậy, không
có căn cứ nào, thậm chí là phản khoa học khi cho rằng: một đảng duy nhất lãnh
đạo một quốc gia như ở Việt Nam thì mất dân chủ.
Vậy đằng sau quan điểm trên hàm ý đích thực như thế nào?
Qua nghiên cứu và phân tích có hai dạng đối tượng có quan điểm nêu
trên. Một là, do nhận thức non yếu về mặt chính trị từ đó có
những phát ngôn thiếu căn cứ; hai là, những phần tử cơ hội chính trị, chống
đối, thù địch với chế độ xã hội chủ nghĩa. Cả dạng đối tượng này đều lợi dụng
các trang mạng xã hội để tập trung đả phá hệ thống lý luận và nền tảng tư tưởng
của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền,
phá hoại việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; bôi nhọ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ nội bộ Đảng, đặc
biệt trong thời điểm nhạy cảm của đất nước như: chuẩn bị và đang diễn ra các kỳ
đại hội Đảng các cấp; kiện toàn bộ máy nhân sự nhà nước ở Trung ương. Từ đó,
kích động tư tưởng phân biệt giai cấp, hận thù chế độ trong các tầng lớp xã
hội; kích động nhân dân, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ Điều 4
Hiến pháp nhằm tạo cơ hội cho các nước tư bản phương Tây dễ dàng thực hiện mưu
đồ chính trị của chúng. Đưa ra các tuyên bố về tôn giáo, nhân quyền ở Việt Nam
trái với thực tế để cho rằng chế độ một đảng lãnh đạo như ở Việt Nam đang mất
hoặc thiếu dân chủ, làm cho nhân dân bị áp bức, bóc lột, gây ra tình trạng quan
liêu, tham nhũng, làm cho đất nước đi không phát triển. Biểu hiện trong giai
đoạn hiện nay là sự câu kết, móc nối giữa các phần tử chống đối ở trong và
ngoài nước ngày càng gia tăng.
Để làm tốt công tác bảo vệ Đảng, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của
Nhà nước thì yêu cầu đặt ra đối với toàn Đảng, toàn quân làm tốt công tác đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.
Một số nội dung biện pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai,
trái thù địch chống phá Đảng trong thời gian tới đó là:
Một là, thường xuyên làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi đối tượng trong xã hội về đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Từ đó, làm cho các đối
tượng trong xã hội nâng cao nhận thức về mọi mặt, tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng; có động cơ đúng đắn trong các hành động nói, viết và các
hoạt động trong xã hội. Kịp thời chống lại những tổ chức, cá nhân có biểu hiện
sai trái về tư tưởng và hành động.
Hai là, tiếp tục kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng chính trị của xã hội; vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng vào thực tiễn có hiệu quả; đồng thời xem xét, phân tích, đánh giá,
vạch trần bản chất những quan điểm, tư tưởng phản động, phản khoa học của cá
thế lực thù địch; phối kết hợp cá lực lượng trong đấu tranh phản bác những luận
điệu sai trái đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở đứng vững trên
lập trường chủ nghĩa Mác - Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, chủ động phát hiện những âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch và kịp thời phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng chức năng trong đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù
địch đạt hiệu quả thiết thực. Đồng thời, thường xuyên hoàn thiện lực lượng
nòng cốt, chuyên sâu trong đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù
địch. Chú trọng đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng
các blog, trang web tổ chức đấu tranh có hiệu quả.
Bốn là, quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17-4-2009
của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm
mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, mà trước
hết phải làm tốt công tác bảo vệ nội bộ.
Năm là, tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước, không để các thế lực thù địch có kẽ hở tấn công; đồng thời, kiên quyết
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận, đập tan những quan điểm, luận điệu
sai trái, thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
LXD-H3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét