Trong
suốt chiều dài lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nêu cao tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định đường lối chiến lược cũng
như trong tổ chức tổ chức thực hiện đường lối đó. Độc lập tự chủ, sáng tạo
không chỉ là truyền thống, mà còn là nét nổi bật thuộc về bản lĩnh chính trị
của Đảng. Bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo biểu hiện rõ nhất ở
những lúc cách mạng gặp khó khăn, trước những bước ngoặt của lịch sử. Từ đó tạo ra cao trào cách mạng rộng khắp để
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt
trong công cuộc đổi mới, nhờ có tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo, Đảng đã có
đường lối cách mạng đúng đắn, luôn chủ động, sáng tạo để đề ra những quyết sách
đúng đắn, phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua những khó khăn thử thách, đi
đến thắng lợi. Tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng được xuất phát từ lý
luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ yêu cầu khách quan của tình
hình thế giới cũng như thực tiễn cách mạng nước ta. Nhưng một điều không thể
phủ nhận, đó chính là bản lĩnh chính trị, năng lực thiên tài của Đảng ta khi
đứng trước những khó khăn thử thách, trước những bước quanh của lịch sử.
Lênin đã từng chỉ rõ: “Một trong những nghệ thuật
của cách mạng là sự mềm dẻo, linh hoạt, khi điều kiện khách quan đã thay đổi
thì người cách mạng phải nhanh chóng thay đổi sách lược”. Lênin còn nhấn mạnh, chúng ta phải: “Chọn một con đường khác để đi
tới đích...nếu con đường cũ, trong một thời
gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”.
Trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, trong
suốt quá trình cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn thể hiện sâu sắc tư tưởng đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm. Đồng thời Người cũng nêu cao tư tưởng độc lập tự chủ, với phương
châm: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”; “ Muốn người giúp mình thì trước hết
mình phải tự giúp mình đã”. Người cũng hết sức phê phán tư tưởng trông chờ, ỷ
lại vào bên ngoài, tư tưởng không dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Người nói: “ Một dân tộc
không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ, thì không xứng đáng
được hưởng độc lập”.
Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm độc lập, tự chủ, sáng
tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn xuất phát từ thực tiễn
cách mạng. Trên cơ sở đó, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
trong hoạch định đường lối lãnh đạo, trong phát động phong trào cách mạng, để
từ đó tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc, bất chấp những khó khăn thử thách, bất
chấp sự can thiệp, chi phối từ bên ngoài, đem lại thắng lợi cho cách mạng.
Thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng
cho thấy, trong suốt 90 năm qua, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ,
sáng tạo, để có đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhờ có đường lối độc lập, tự chủ,
sáng tạo, mà Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã có Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn, đưa cách mạng phát triển vào trào lưu tiến bộ nhất của nhân
loại, để cách mạng phát triển đúng hướng từ đó về sau. Khi đó, nếu không có
tính độc lập tự chủ, sáng tạo, thì Đảng ta sẽ chấp nhận sự chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản một cách thụ động. Nhưng nhờ có tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng
đã đưa ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó
chính là việc Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng, phải trải qua hai
giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ đó Đảng
phát động được cao trào rộng khắp, thu hút, tập hợp được lực lượng cách mạng to
lớn, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn thử thách, song với niềm tin
mãnh liệt vào phương hướng mục tiêu đã định, Đảng đã lãnh đạo, xác định mục
tiêu đấu tranh phù hợp cho từng giai đoạn, xác định đúng đắn kẻ thù của giai
cấp và của dân tộc, đó là đặt nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, từ đó đoàn kết, tập hợp được lực lượng cách mạng to lớn, giành thắng
lợi qua các cao trào 1930- 1931; 1936- 1939 đặc biệt cao trào 1939- 1945, để
đưa cách mạng Tháng Tám đến thành công. Nghệ thuật khởi nghĩa tháng Tám là một
điển hình về tính chủ động, sáng tạo của Đảng. Nhiều nơi chưa nhận được lệnh
khởi nghĩa của Trung ương, nhưng nhận thấy những chuyển biến mau lẹ của thời
cuộc, căn cứ vào Chỉ thị “ Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của
Đảng để kịp thời phát động quần chúng nhân dân khởi nghĩa, giành chính quyền.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền
cách mạng trong tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. Các thế lực đế quốc kấu kết
với nhau, định thủ tiêu chính quyền non trẻ, tiêu diệt Đảng Cộng sản. Đảng hết
sức sáng tạo trong chính sách hoà hoãn, nhân nhượng kẻ thù, khi thì hoà Tưởng
để chống Pháp như Đảng tuyên bố tự giải tán ( thực chất là Đảng rút vào hoạt
động bí mật), chấp nhận nhường 70 ghế đại biểu Quốc hội không qua bầu cử cho
bọn Việt quốc, Việt cách...khi thì hoà với Pháp để gạt Tưởng, tránh cho nhân
dân ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là những biện pháp cực
kỳ sáng suốt, nhưng Đảng vẫn giữ vững nguyên tắc đó là độc lập, thống nhất tổ
quốc.
Trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng vậy, nhờ đường lối độc lập, tự chủ, sáng
tạo, Đảng đưa ra đường lối đấu tranh đúng đắn, vừa tranh thủ được sự giúp đỡ
của quốc tế, nhưng không phụ thuộc vào sự chỉ đạo của họ, để đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi. Nhìn lại cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc,
chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về Đảng. Mặc dù khi đó bạn bè quốc tế đều khuyên
ta không nên đánh Mỹ, trong đó vừa có ý kiến lo lắng cho cuộc chiến không cân
sức giữa ta và Mỹ, vừa có ý kiến vì lợi ích cá nhân họ khuyên ta không nên đánh Mỹ “sợ một đám
lửa làm cháy cả một cánh rừng”, nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Khi đó Liên Xô, Trung Quốc giúp đỡ ta rất lớn về vật chất, tinh thần, nhưng
chúng ta không vì thế mà phụ thuộc vào họ, điều đó vừa chứng tỏ bản lĩnh kiên
định, vừa thể hiện tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, một lần nữa, tính
độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng được phát huy. Mặc dù đất nước mới cơ bản
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, miền Nam tiếp
tục cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhưng Đảng đã độc lập, sáng tạo trong
việc đề ra đường lối đúng đắn, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chính sự đúng đắn, sáng tạo
đó đã giúp cho cách mạng Việt Nam phát triển đúng quĩ đạo, đi đến thắng lợi.
Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhanh chóng đạt được những thành tựu
to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời là hậu phương lớn chi
viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam, để hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào
sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, để từ đó đưa ra đường lối đổi
mới. Trong bối cảnh đó các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng đang đứng
trước khó khăn trên con đường cải tổ, cải cách. Thực hiện đường lối đổi mới, với
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đạt được nhiều thành quả khả quan, đưa tên tuổi của
Việt Nam ngày càng lan tỏa rộng hơn trên bản đồ thế giới.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong hoạch
định đường lối đổi mới còn được thể hiện Đảng luôn bám sát thực tế, tôn trọng
qui luật khách quan, vừa tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế
giới, nhưng không chịu sức ép, sự áp đặt, không dập khuôn máy móc, không giáo
điều bảo thủ. Điều đó được thể hiện trong những năm cuối của thế kỷ XX, tình
hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ. Xu hướng đối đầu đã được thay thế
bằng đối thoại, hoà bình hợp tác đã trở thành xu thế khá phổ biến trong quan hệ
quốc tế. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền kinh
tế thế giới phát triển, đồng thời đặt ra cho các nước, các dân tộc muốn phát
triển phải biết tranh thủ thời cơ, vận dụng thành tựu khoa học. Trong bối cảnh
đó, tình hình cải cách, cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu lâm vào khủng hoảng, thế giới mất đi lực lượng đối trọng với Mỹ. Chủ nghĩa
đế quốc điên cuồng chống phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam, bằng
chiến lược diễn biến hoà bình, nhằm làm chuyển hoá dần dần đi đến xoá bỏ hoàn
toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có sự
điều chỉnh kịp thời, bằng những chủ trương đúng đắn, phù hợp, từ đó đưa sự
nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Tính độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta còn được
thể hiện, trong quá trình đổi mới Đảng đã thực sự lột xác, kể cả trong tư duy
cũng như trong hành động. Tuy nhiên, Đảng luôn quán triệt quan điểm biện chứng,
đó chính là phát triển nhưng có kế thừa, Đảng không phủ nhận sạch trơn, mà biết
kế thừa những thành tựu, những yếu tố tích cực mà nhân dân ta đã đạt được trong
thời gian trước đó. Đồng thời Đảng cũng không phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác-
Lênin, không phủ nhận những qui luật phổ biến, trái lại, Đảng luôn quán triệt
và vận dụng sâu sắc các nguyên lý, qui luật của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn quá
trình đổi mới, từ đó đem lại thành tựu to lớn cho công cuộc đổi mới...
Quá trình đổi mới, Đảng chủ trương phải toàn diện,
triệt để, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải có
hình thức, bước đi thích hợp. Đây chính là bí quyết riêng đi đến thành công của
Đảng ta trong công cuộc đổi mới. Sau đường lối đổi mới mà Đại hội VI của Đảng
đề ra, chúng ta đã tiến hành đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là
cuộc cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện trên mọi mặt của đời
sống xã hội. Nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra kể cả về lý luận cũng như thực tiễn cần
được giải quyết, chúng ta vừa đổi mới, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, từng bước
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, sao cho đi
đúng qui luật khách quan, phát triển vững chắc cho cách mạng.
Đổi mới là công việc hệ trọng, mang tính sống còn
đối với mỗi quốc gia, là công việc hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến tất cả các
mối quan hệ xã hội, như mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với tổ
chức... Nếu tiến hành không thận trọng, không có hình thức, bước đi vững chắc,
sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một bài học tiền nhãn, đắt giá cho các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu và Liên Xô mà Đảng ta cần rút ra trong quá trình đổi mới. Chính vì
thế, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã biết tập trung đột phá đổi mới vào hai
lĩnh vực then chốt, trọng yếu nhất, đó là kinh tế và chính trị, đồng thời giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng xác
định kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực lớn, quyết định sự thay đổi bộ mặt
đất nước, quyết định đến nhiệm vụ giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh chính trị quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác
định đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được tiến hành đồng thời, nhưng
giai đoạn đầu tập trung sức cho đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước, thận
trọng đổi mới chính trị. Bởi chỉ có như thế chúng ta mới giải quyết được mắt
khâu quan trọng nhất của công cuộc đổi mới, xét đến cùng cơ sở kinh tế là nhân
tố quyết định sự ra đời và tồn tại của một chế độ xã hội. Kinh tế phát triển sẽ
bảo đảm chính trị ổn định, văn hoá, giáo dục phát triển, quốc phòng, an ninh
được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Trong đổi mới kinh tế, trước
hết tập trung vào lĩnh vực tư duy kinh tế, sau đến thay đổi cơ chế quản lý kinh
tế, làm thay đổi toàn bộ những suy nghĩ, những nhận thức trước kia chưa đúng,
chưa đầy đủ. Thay đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, bằng cơ chế
kế hoạch hoá, từ đó khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính
quá trình đổi mới kinh tế thành công, đã có tác động tích cực đối với việc đổi
mới chính trị, đó là sự giữ vững định hướng chính trị trong quá trình đổi mới
kinh tế. Đổi mới kinh tế là mặt trận đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt, phức
tạp nhất, nếu đổi mới kinh tế đạt kết quả sẽ tạo điều kiện cho đổi mới chính
trị thắng lợi. Đồng thời kết hợp với đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị sẽ tạo
tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Trong đổi
mới chính trị, thể chế chính trị, vai trò của nhà nước có tác động đến năng lực
hiện thực hoá đường lối phát triển kinh tế đất nước. Trong đổi mới chính trị,
Đảng chủ trương tập trung vào việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chính
việc giải quyết hài hoà mối quan hệ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị đã
giúp cho nền kinh tế đất nước ta tăng trưởng khá, đời sống nhân dân không ngừng
được cải thiện, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Đường
lối đổi mới độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, là sản phẩm của sự kế thừa lịch
sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước.
Đồng thời còn là sự kế thừa giá trị tinh hoa nhân loại, biết vận dụng cụ thể
vào thực tiễn, yêu cầu đòi hỏi của cách mạng. Đảng ta, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường,
trên cơ sở đó đề ra những quyết sách đúng đắn đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
Chúng ta không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, chúng ta không bị ép buộc bởi
bất cứ một thế lực nào. Đồng thời, Đảng cũng không dập khuôn bất cứ một mô hình
nào vào đường lối đổi mới, mà luôn sáng tạo trong đổi mới tư duy, cách nghĩ,
cách làm, để công cuộc đổi mới thành công.
Trong quá
trình đổi mới, Đảng đã tổng kết, rút ra được những bài học quý giá. Điều đó càng
thấy rõ trong quá trình đổi mới, Đảng luôn tìm tòi, sáng tạo tìm ra hướng đi
thích hợp nhất cho dân tộc, không lúc nào Đảng bằng lòng với thành quả đã đạt
được trong thời gian qua, mà mong muốn đạt kết quả cao hơn nữa trong các giai
đoạn tiếp theo. Trong các kỳ Đại hội, Đảng luôn đưa ra các bài học kinh nghiệm,
các bài học đó đều được đúc rút từ thực tiễn công cuộc đổi mới đó là:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm thích hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân,
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh
thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện
mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Trên cơ
sở kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới, bằng những bài học rút ra, đồng
thời, Đảng không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Chính vì thế từ khi khởi xướng
và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng lãnh đạo làm cho đời sống
nhân dân không ngừng được cải thiện, kinh tế tăng trưởng năm sau cao hơn năm
trước, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, quan hệ đối
ngoại được rộng mở... bởi Đảng luôn có đường lối, phương pháp lãnh đạo đúng
đắn, phù hợp qui luật khách quan, hợp lòng dân. Một bài học thành công trong
suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, đó chính là việc Đảng luôn
nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo trong hoạch định
đường lối. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII sắp tiến hành, tinh thần độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo càng được Đảng cần được phát huy cao
hơn nữa, nhằm dự báo chính xác tình hình, đề ra đường lối đổi mới, chủ trương,
biện pháp lãnh đạo phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng, xu thế phát triển
của quốc tế. Đồng thời biết kế thừa, phát huy kinh nghiệm, kết quả đã đạt được
trong công cuộc đổi mới vừa qua, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi, phấn
đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
N.X.T-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét