Bảo thủ là một
tư tưởng đã ăn sâu, bám rễ, trở thành thuộc tính cố hữu trong cách
nghĩ, cách làm và tư duy của cán bộ, đảng viên và người dân. Mặt khác, phản
ứng lại sự tấn công của cái mới, cái tiến bộ vốn là thuộc tính của tư tưởng bảo
thủ. Để bảo vệ mình, người mang tư tưởng bảo thủ luôn tìm ra đủ phương cách. Do
đó đấu tranh khắc phục tư tưởng bảo thủ không phải là công việc đơn giản
và dễ thực hiện trong một sớm một chiều. Muốn chữa trị căn bệnh bảo thủ,
chúng ta phải có quyết tâm cao, kiên trì tiến hành đồng bộ, thường xuyên,
liên tục, bằng nhiều giải pháp.
Theo từ điển tiếng
Việt, bảo thủ được hiểu là “duy trì cái cũ, cái hiện tồn, không muốn tiếp nhận
cái mới”. Còn theo cách hiểu thông thường, bảo thủ là duy trì cái cũ, bảo
vệ cái cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu; không chịu tiếp thu cái mới, cái hay, cái
tiến bộ, chống lại những tư duy mới, hành động mới trong mọi lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế - xã hội… Trên thực tế những biểu hiện của tư tưởng bảo
thủ được thể hiện, bộc lộ dưới rất nhiều dạng, nhiều khía cạnh. Có những biểu
hiện chỉ thoáng qua người ta đã biết, nhưng có những biểu hiện không phải ai
cũng dễ nhận ra, do đó việc nhận diện đúng tư tưởng bảo thủ để đấu tranh khắc
phục là việc làm cần thiết.
Sinh thời Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến việc đấu tranh ngăn chặn tư tưởng bảo thủ.
Trong Thư gửi đồng bào và cán bộ xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An), ngày 13-2-1962, khi đề cập đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó
đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm”. Trong nhiều
bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích rõ tác hại của tư tưởng bảo
thủ. Người ví nó như sợ dây trói buộc, ngăn cản sự tiến bộ của con người, ngăn
cản sự phát triển của tập thể.
Tại Nghị quyết
số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng ta cũng chỉ rõ “bảo thủ” là một trong những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Hiện nay, các cấp, các ngành,
các đơn vị, địa phương đã và đang tổng kết thực hiện nhiệm vụ năm 2019. Khi
phân tích về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, nhiều đơn vị, địa phương
cũng chỉ rõ đó là tình trạng chậm đổi mới cả trong tư duy và hành động, hay nói
cách khác là căn bệnh bảo thủ còn khá nặng… Trước yêu cầu mới của sự nghiệp
cách mạng, việc nhận diện những biểu hiện cụ thể, nguyên nhân và hậu quả của
tư tưởng bảo thủ, trên cơ sở đó xác định và tiến hành
các chủ trương, biện pháp đấu tranh hiệu quả, góp phần đưa đất
nước phát triển là việc rất quan trọng.
Tác hại mà tư
tưởng bảo thủ gây ra với mỗi tập thể, mỗi xã hội là rất rõ ràng. Tác hại của tư
tưởng bảo thủ sẽ càng lớn khi nó được áp đặt vào người khác, áp đặt vào tập thể.
Do đó sẽ rất nguy hại nếu người mang tư tưởng bảo thủ giữ chức vụ cao, nhất là
những người giữ vai trò chủ trì, chủ chốt ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Trên
thực tế vẫn có rất nhiều người đang cố thủ trong các vỏ bao bọc của lề thói cũ,
tư duy và chủ nghĩa kinh nghiệm. Vấn đề này cũng đã được Đảng ta chỉ rõ trong
nhiều văn kiện. Ngoài những yếu tố khách quan như tàn dư của chế độ phong
kiến, thực dân; ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp một thời; là sự khắc
nghiệt của điều kiện tự nhiên… chúng ta cần phải thấy một trong những nguyên
nhân chủ quan dẫn đến căn bệnh bảo thủ là do nhận thức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Do chưa nhận thức rõ vấn đề và
những đòi hỏi từ thực tế nên chúng ta đã chậm đổi mới trong cả tư duy và hành động; giáo
dục và đào tạo không bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại…
Từ thực trạng
tình hình, Đảng ta đã nhận rõ đổi mới tư duy là quy luật tất yếu của cách
mạng, của công cuộc đổi mới. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Đảng ta khẳng định rằng: “Chỉ có đổi mới tư duy thì mới thấy đúng và thấy hết
sự thật, thấy hết những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa”…
Chính sự quyết tâm đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất
nước mà chúng ta có được những bước tiến dài như ngày hôm nay. Có thể khẳng định,
hơn ba mươi năm lăm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta.
Trước những đòi
hỏi mới của tình hình, nhất là ở thời Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cái mới,
cái tiến bộ không ngừng nảy sinh phủ định cái cũ, cái lạc hậu và chính sự ra đời
của cái mới, sự triệt tiêu của cái cũ giúp cuộc sống của chúng ta không ngừng vận
động, phát triển, thì cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tư tưởng bảo thủ,
không ngừng đổi mới, sáng tạo càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy
nhiên, đổi mới không có nghĩa là chúng ta phủ định sạch trơn cái ra đời trước,
kinh nghiệm của những người đi trước. Nhưng nếu chúng ta cứ bình chân nằm ôm
khư khư đống kinh nghiệm ấy mà không tìm tòi, đổi mới, sáng tạo thì nhất định
chúng ta sẽ tụt hậu, đặc biệt trong xã hội hiện đại, khoa học, công nghệ phát
triển như vũ bão, tri thức mới không ngừng ra đời như hiện nay.
Để khắc phục
tình trạng bảo thủ, chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục. Thực tế đã chứng minh tuyên truyền, giáo dục là một trong những giải
pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi căn bệnh bảo thủ. Để làm được điều đó, trước hết
chúng ta phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục trong các cơ quan, đơn vị,
trường học; nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là của cơ quan cấp trên, cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị, bởi những
người này mang nặng tư tưởng bảo thủ thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tập thể. Cùng
với đó, chúng ta phải bảo vệ nhân tố mới, cổ vũ tư tưởng đổi mới, tinh thần
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; tính linh hoạt, sáng tạo cả trong tư
duy và hành động. Việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức để chống
tư tưởng bảo thủ phải được xác định là việc làm thường xuyên, liên tục, ở
mọi cấp, mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, mọi lứa tuổi, đối tượng… Đối với từng
nhóm đối tượng phải lựa chọn nội dung, hình thức và biện pháp tuyên truyền sao
cho phù hợp, hiệu quả, trong đó cần nêu cao vai trò của báo chí, truyền
thông.
TXD-H2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét