Trong các thời kỳ lịch sử, nhất
là sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, với những
thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, các thế lực thù địch đã tăng cường chống
phá cách mạng Việt Nam. Trong đó có âm mưu đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi chuyển đổi thể
chế chính trị ở Việt Nam.
Sự nguy hại khôn lường của âm
mưu đòi “đa nguyên, đa đảng”
Từ bên ngoài, các thế lực thù địch
sử dụng một khối lượng khổng lồ các phương tiện thông tin, truyền thông, nhất
là sử dụng các trang mạng xã hội để thực hiện các chiến dịch chống phá tư tưởng
quy mô lớn đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch đưa ra luận điệu: Các cương
lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng chứng tỏ sự “chuyên quyền”, “độc đoán”, “đảng
trị”. Chúng đổ lỗi cho Đảng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế của đất nước so với
những nước trong khu vực; từ đó, chúng cho rằng, trong thời đại ngày nay, nếu
tiếp tục đi theo con đường XHCN là sai lầm. Chúng “khuyên” chúng ta đi theo mô
hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”, xóa
bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 về hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, vì
chúng cho rằng “đa nguyên, đa đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt
hơn cho sự phát triển của xã hội”(!).
Đây là một luận điệu hết sức
nguy hiểm và thâm độc vì họ cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với
dân chủ và phát triển. Với những người có nhận thức chính trị không vững vàng
có thể dễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó, cổ xúy cho việc thiết lập
cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Như vậy, luận điệu “muốn thực sự dân chủ
và phát triển”, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thực chất
là đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải “từ bỏ vị thế lãnh đạo”, “chuyển đổi thể
chế chính trị”, với mục tiêu thâm độc là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thực hiện “đa nguyên chính trị”, chuyển hóa chế độ XHCN sang các
chế độ xã hội khác.
Kiên trì giữ vững “linh hồn, mạch
sống” của Đảng
Trong bối cảnh hiện nay, việc nhận
diện và kịp thời đập tan các âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm của các thế lực
thù địch, phản động đòi đa nguyên, đa đảng chính là vấn đề cốt tử để bảo vệ tính
chính danh, bản chất cách mạng, vị thế, sứ mệnh cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, cần chú
trọng nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và toàn xã hội về âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chống phá, bác bỏ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, nâng cao tinh thần cảnh giác của cán bộ,
đảng viên và nhân dân để kịp thời phát hiện, tẩy chay, không tiếp tay cho kẻ xấu
lan truyền thông tin, nhất là trên không gian mạng.
Trên cơ sở đó, thống nhất nhận
thức trong toàn xã hội về phương châm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng. Trọng
tâm của công tác này là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức
ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội.
Bảo vệ đường lối cách mạng, khoa
học của Đảng
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời (3-2-1930) và trải qua các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, cương lĩnh, đường lối,
quan điểm của Đảng luôn bị các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ chống
phá, xuyên tạc, phủ định. Những năm cuối thập niên 1930, trước sự chống phá của
bọn Trotsky, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”. Năm
1939, trong ý kiến gửi các đồng chí ở trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh:
“Đối với bọn Trotsky, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng
mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt
chúng về chính trị”. Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu, trước âm mưu phủ định CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đòi chấm
dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên
chính trị và đa đảng đối lập của các thế lực thù địch, phản động, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ những quan điểm sai trái đó, kiên định
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam; hoạch định và không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và thông
qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Thực tiễn
sinh động của cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, đối với Việt Nam “không còn con
đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt
khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930), Luận cương chính trị tháng
10-1930, Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và đường lối cách mạng dân tộc dân
chủ là ngọn cờ soi sáng bước đường tranh đấu của dân tộc Việt Nam giành độc lập,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bước đầu xây dựng CNXH; thì Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991 cũng như
Cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011) và đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, trở thành nước
đang phát triển, có thu nhập trung bình và đã đạt được những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc và CNXH, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu trong
bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”: “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường
lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di
sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của
mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí
Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có
thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống
tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.
Điều đó là cơ sở để khẳng định,
không có lý do gì để Đảng và dân tộc Việt Nam rẽ sang con đường tư bản chủ
nghĩa hay một con đường phát triển nào khác, trao quyền quản lý đất nước cho những
thế lực cơ hội, phản động.
Khẳng định nhân tố hàng đầu quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Thực tiễn lịch sử 92 năm lãnh đạo
cách mạng Việt Nam cho thấy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được
nhân dân tin tưởng giao phó trọng trách trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Điều đó không phải là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự
giao phó của lịch sử, của cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa
chọn một cách đúng đắn.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
trong thế kỷ 20, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành được những thắng lợi
vĩ đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước
dân chủ nhân dân ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc-kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền CNXH.
Hai là, thắng lợi của các cuộc
kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa
thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH: “Với những thắng lợi giành được
trong thế kỷ 20, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá”. Với những thành quả đạt được: “Chúng ta tự
hào về dân tộc ta-một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng
ta-Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện-một
lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân”.
Đặc biệt, sau hơn 35 năm tiến
hành sự nghiệp đổi mới, quy mô nền kinh tế tăng từ 26,88 tỷ USD năm 1986 lên
271,2 tỷ USD năm 2020; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 182USD năm 1990 lên
2.779USD năm 2020. Sau 25 năm (1995-2020), Việt Nam đã làm được kỳ tích, đưa nền
kinh tế tăng gấp 10 lần cả về quy mô và thu nhập bình quân trên đầu người, tăng
21 hạng về quy mô nền kinh tế và tăng 54 hạng về thu nhập đầu người trên bảng xếp
hạng các quốc gia.
Thực tiễn phong phú, sinh động của
cách mạng Việt Nam 92 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều
kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Đồng thời khẳng định một chân lý: “Ở Việt Nam,
không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản
lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác”.
Như vậy, luận điệu của các thế lực
thù địch, phản động cho rằng, đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ,
thực ra là một trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ
chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Đề cập đến vấn đề này, trả lời câu hỏi của
phóng viên báo Express Ấn Độ về việc liệu đã đến lúc chín muồi để Việt Nam có một
hệ thống đa đảng, hoặc có các đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam để có thể
tính tới các quan điểm của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều dân tộc khác nhau, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng
thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau,
điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống
ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên
không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị
trường thì phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có
chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ./.
PTC-BC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét