Biển, đảo Việt
Nam có vị trí chiến lược, trọng yếu về địa chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi biển,
đảo là phần máu thịt không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam và động viên toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tư
tưởng của Người có giá trị to lớn và là kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay.
Biển, đảo Việt
Nam có vị trí địa lý kinh tế quan trọng, nằm án ngữ tuyến đường hảng hải và
hàng không huyết mạch của thế giới và các nước trong khu vực. Biển Đông là một
trong những tuyến đường hàng hải lớn của thế giới.Sự hình thành mạng lưới cảng
biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu
trong nội địa cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyên chở
hàng hóa xuất, nhập khẩu một cách nhanh chóng, thuận lợi.Bên cạnh đó, biển, đảo
Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt và các
nguồn tài nguyên khác. Dọc ven theo bờ biển nước ta có nhiều bãi triều, eo vịnh,
đầm phá rất thuận lợi cho du lịch biển, đảo và nuôi, trồng hải sản có giá trị;
thuận lợi cho xây dựng cảng biển, trong đó một số nơi có khả năng xây dựng cảng
nước sâu quy mô lớn.
Bên cạnh vị
trí quan trọng về địa kinh tế, biển, đảo Việt Nam có vị trí, vai trò trọng yếu
về quốc phòng - an ninh. Biển, đảo nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa
ngõ quốc gia; các vùng biển và hải đảo cùng với đất liền hình thành phên giậu,
pháo đài, chiến lũy nhiều tầng, lớp, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn vững
chắc bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển,
đảo Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ của đất
nước ở hướng đông. Do đó, xây dựng tiềm lực, thế trận phòng thủ biển, đảo, tạo
thành thế trận liên hoàn bờ - biển - đảo có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Biển, đảo không chỉ là bộ
phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là
không gian sinh tồn và phát triển của các thế hệ người Việt Nam, đồng thời là
nơi lưu giữ và phát triển các giá trị văn hóa biển Việt Nam…
Tư tưởng Hồ
Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Với tầm nhìn
chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, tầm quan trọng của biển,
đảo trong sự nghiệp bảo vệ và kiến thiết đất nước. Người khẳng định: “Nước ta ở
về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu” Theo Người, “biển
bạc” chính là của cải vật chất, là sự giàu có nếu khai thác tốt tiềm năng, đi
liền với bảo vệ biển; biển, đảo chứa đựng tài nguyên có giá trị về kinh tế, nối
liền không gian kinh tế đất nước với khu vực và thế giới. Khẳng định về vị trí,
vai trò của biển, đảo, Người đã đưa ra hình ảnh gần gũi mà dễ hiểu với toàn
dân: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được
không?... Nếu mình không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không
yên.Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ
bờ biển.Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”.
Theo Người,
muốn khai thác tài nguyên biển phục vụ cho công cuộc kiến thiết nước nhà, trước
hết cần phải giữ yên “cửa nhà”, nghĩa là giữ vững biển, đảo của Tổ quốc. Ngày
15-3-1961, nhân dịp đến thăm Bộ đội Hải quân lần thứ hai, Người chỉ
rõ: "Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời,
có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Đồng thời,
Người căn dặn các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam: "Bờ biển
ta có vị trí rất quan trọng. Vì vậy, nhiệm vụ của Hải quân trước mắt
cũng như lâu dài rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Phải biết tìm ra cách
đánh phù hợp với điều kiện con người, địa hình bờ biển nước ta và
vũ khí trang bị mình có. Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu
hiện đại nhưng không được quên truyền thống đánh giặc xa xưa kia của tổ
tiên".
Trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao và văn hóa của
đất nước. Theo Người, sức mạnh bảo vệ biển, đảo là sức mạnh đoàn kết toàn dân.
Ngày 10-4-1956, khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phát động miền biển, Người
đã căn dặn: “Lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại,
mà phải tự lực cánh sinh”. Đây là nguyên tắc chiến lược, bởi vì khi
có nguy biến thì lực lượng và phương tiện tại chỗ của đồng bào sẽ ứng phó kịp
thời, cản trở hữu hiệu mọi sự đe dọa, xâm lấn chủ quyền biển, đảo trước khi có sự
phối hợp của các lực lượng khác. Trong sức mạnh đoàn kết toàn dân bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, Người luôn nhấn mạnh đến lực lượng trực tiếp và nòng cốt là Hải
quân nhân dân Việt Nam.Ngày 7-5-1955, Người chỉ đạo thành lập Cục Phòng thủ bờ
biển (nay là Quân chủng Hải quân). Ngày 11-8-1965, nhân dịp hải quân ta vừa
tròn 10 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ và chiến sĩ hải
quân, vừa khen ngợi thành tích, vừa vạch rõ sự cần thiết xây dựng hải
quân vững mạnh trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo. "Tuy
còn non trẻ, nhưng nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự tin yêu, giúp đỡ của
nhân dân, sự cố gắng không ngừng của mình, hải quân ta đã anh dũng chiến đấu,
tích cực diệt địch, bắn rơi máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập
công, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng trời và vùng biển của Tổ quốc. Các chú đã
nêu cao truyền thống anh hùng của dân tộc ta”.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ lâu dài, khó khăn, phức
tạp, bởi phạm vi chủ quyền biển, đảo của nước ta rộng lớn, trong khi thực lực của
chúng ta còn hạn chế; nước ngoài có thể sử dụng nhiều thủ đoạn, kể cả vũ lực để
xâm chiếm biển, đảo. Vì vậy, chúng ta phải tìm cách đánh phù hợp với điều kiện,
con người, địa hình bờ biển nước ta, cùng trang bị vũ khí hiện có, học tập cách
đánh hiện đại kết hợp với truyền thống đánh giặc xa xưa của tổ tiên. Bên cạnh
việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tập hợp lực lượng, phương thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, thì việc mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biển,
đảo được Người đặc biệt quan tâm.
Theo Người,
“nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế
giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”, nên những hoạt động đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc của nước ta có mối quan hệ với cuộc đấu tranh chung của thế
giới tiến bộ; nhưng phải “dĩ bất biến”, “ứng vạn biến” để tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Vì vậy, phải có chính sách đối
ngoại rộng mở, hội nhập quốc tế và hợp tác, hòa bình tốt; tránh đối đầu và
không gây thù oán với ai.Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần
tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực
lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam. Theo Người, để tập hợp các lực lượng quốc tế
đoàn kết ủng hộ Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân
thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
Hiện nay,
tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp,
khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng,
phức tạp, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng
không trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng các hoạt động, yêu sách chủ quyền, nhất
là ở những vùng biển giáp ranh, nhạy cảm, chưa phân định. Vì vậy, vấn đề bảo vệ
chủ quyền biển, đảo càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần
sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo.
Một là, nâng
cao nhận thức về chủ quyền biển, đảo và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo
cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đây là giải
pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong hệ
thống chính chính trị và toàn xã hội đối với trách nhiệm bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nhận thức đúng thì mới tạo
được sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước trong mỗi
người dân Việt Nam đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của
Tổ quốc, như Bác Hồ đã căn dặn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và bè
lũ cướp nước”. Cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giáo dục, tuyên truyền nâng
cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong mọi tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền biển, đảo. Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
truyền thống, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta; đường lối, quan
điểm, chính sách, pháp luật, phương châm, tư tưởng chỉ đạo, đối sách giải quyết
các vấn đề biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta; các tập quán, điều ước quốc tế về
biển và Việt Nam là thành viên; bản chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá nước ta; tính chất khó khăn, phức tạp,
nhạy cảm của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay...
Hai là, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng “dĩ bất biến, ứng
vạn biến” trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Quán triệt và
vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, cần thấm nhuần quan
điểm có tính nguyên tắc: Chủ quyền biển, đảo là chủ quyền quốc gia trên biển,
là lợi ích quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng thay mặt đất nước và nhân dân Việt Nam, tuyên bố với thế giới
rằng, nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng
tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất:
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập cho đất nước; toàn thể nhân dân Việt Nam
“quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải” để giữ vững
chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là cách ứng xử của ta phải linh hoạt, khôn
khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ theo đúng tinh thần:
“Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì
linh hoạt”. Vận dụng tư tưởng này của Người trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc để đạt mục đích tối thượng là bảo vệ
toàn vẹn từng tấc đất, sải biển, song phương pháp, cách thức đấu tranh phải
linh hoạt, mềm dẻo bằng mọi hình thức, biện pháp, trong đó lấy đối thoại, đàm
phán hòa bình để giải quyết bất đồng; kiên quyết, kiên trì không mắc âm mưu
khiêu khích, tạo cớ. Kiên định đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng giải
pháp “hòa bình”, bằng sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính trị, ngoại giao, chứng
cứ pháp lý, lịch sử. Chúng ta kiên trì, tránh xung đột nhưng khi chủ quyền bị
xâm phạm, chúng ta sẵn sàng đáp trả bằng quyền tự vệ chính đáng. Xử lý thật tốt
mối quan hệ toàn vẹn độc lập, chủ quyền và duy trì hòa bình, ổn định. Đồng thời,
cần cảnh giác trước những mưu toan hạ thấp giá trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm
suy giảm lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước…
Ba là, xây dựng
“thế trận lòng dân” trên biển, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Xây dựng “thế
trận lòng dân” trên biển là quá trình xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, ý
chí, tâm lý và niềm tin của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc, mà cốt
lõi là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân dân. Xây dựng
“thế trận lòng dân” trên biển phải song hành với việc giữ gìn giá trị, phát huy
truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi
và trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở
công bằng, bình đẳng, tuân thủ pháp luật. Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển
vững mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang
nhân dân là nòng cốt.
Tập trung xây
dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên
phòng biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển, có số lượng hợp lý, chất lượng tổng
hợp cao; chú trọng xây dựng trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ hợp đồng
tác chiến quân binh chủng đi liền với trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại;
kết hợp tốt phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh trên biển của các lực
lượng chuyên trách. Đồng thời, cần phát huy tốt vai trò tham mưu của lực lượng
vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho cấp ủy, chính quyền địa
phương về công tác quốc phòng, quân sự địa phương; về xây dựng khu vực phòng thủ
biển, đảo vững chắc; tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao kiến thức quốc phòng, an
ninh cho ngư dân; bảo đảm hậu cần - kỹ thuật nghề cá; chú trọng công tác tìm kiếm
cứu hộ, cứu nạn và bảo vệ môi trường biển.
Bốn là, phát
triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Xác lập và thực
thi chiến lược phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng
- an ninh; phát huy các nguồn lực bên trong, thu hút mạnh các nguồn lực bên
ngoài để phát triển các khu vực ven biển. Phát triển kinh tế biển là cơ sở quan
trọng để củng cố quốc phòng - an ninh trên biển, đồng thời củng cố quốc phòng -
an ninh trên biển là điều kiện, tiền đề để phát triển kinh tế biển một cách bền
vững. Bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế biển phải tạo cơ sở cho việc bảo vệ
chủ quyền biển, đảo và ngược lại. Sự gắn kết và mối quan hệ biện chứng này phải
được xác định rõ từ quan điểm, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phát triển
kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên biển; gắn chặt và thống nhất chung
trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta khẳng
định: “Đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các
tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển;
chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm,
suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi
và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng”. Để hiện thực hóa mục tiêu trở
thành quốc gia biển mạnh, cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát
triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển,
vận tải biển; tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người dân định cư lâu dài
trên các đảo. Tăng cường công tác cứu hộ, cứu nạn và bảo đảm an ninh, an toàn
trên biển, đảo. Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu
công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm
kinh tế biển mạnh. Đổi mới tư duy trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế
hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng
bộ, hiện đại, theo mô hình, tiêu chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy
nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven
biển theo hướng tiếp cận mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, công
nghệ cao, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; giải quyết tốt vấn đề môi trường,
xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân./.
HPT-TT
0 nhận xét:
Đăng nhận xét