Văn học thời
gian gần đây có những lêch lạ, đó là việc hư cấu lịch sử vượt ra khỏi logic của
sự thật và bối cảnh xã hội thực tiễn của lịch sử. Viết về lịch sử không thể viết
tùy tiện, sáng tạo hư cấu như thế nào cũng được. Nhà văn viết về lịch sử có thể
sáng tạo ra tâm lý, ngôn ngữ, tư tưởng, tình cảm cho những nhân vật lịch sử nổi
tiếng có thật, thậm chí có thể hoàn toàn sáng tạo ra thêm một vài nhân vật hư cấu
để làm rõ hơn dụng ý nghệ thuật của mình, như Nguyễn Xuân Khánh đã làm trong tiểu
thuyết “Hồ Quý Ly”.
Nhưng nhà văn viết về lịch sử buộc phải nghiên
cứu kỹ bối cảnh xã hội của thời điểm lịch sử mà tác phẩm đề cập đến. Đặt một
loài cây, một đồ vật, một chi tiết, một sự kiện chưa/không thể có ở thời điểm lịch
sử mà tác phẩm miêu tả, thì đó nhất định là một lỗi sáng tạo, một nhầm lẫn kém
cỏi, chứ không thể ngụy biện dưới cái ô “sáng tạo không giới hạn về lịch sử”,
hay thậm chí là cả thủ pháp “hư cấu siêu sử ký” (historical fiction) của chủ
nghĩa hậu hiện đại. Trong văn học hậu hiện đại, những nhà văn như Isaac
Bashevis Singer, Donald Barthelme có chủ ý và công khai ngay từ đầu những hư cấu
lịch sử phi lý, cố tình trộn lẫn các sự kiện, nhân vật vào những bối cảnh xã hội
khác nhau. Còn ở ta, đơn giản là những nhà văn có sự nhầm lẫn, sai sót về thời
điểm và văn hóa lịch sử trong sáng tạo.
Vẫn còn hiện
tượng nhiều nhà văn thường chủ trương sử dụng các chi tiết dục tính (sex), kinh
dị, những chất liệu ngôn từ suồng sã, dung tục quá nhiều trong tác phẩm đã tạo
ra nhiều hệ lụy, tác hại đối với đời sống tinh thần bạn đọc. Việc xuất hiện yếu
tố sex, kinh dị hay từ tục trên văn đàn thế giới, trong sáng tác của các bậc thầy
văn học là không hiếm. Nhưng yếu tố sex, từ tục hay kinh dị, huyền ảo xuất hiện
trong tác phẩm của những bậc thầy văn học là những thủ pháp nghệ thuật có tính
tư tưởng, có quan niệm thẩm mỹ nhất định.
Ngược lại,
nhiều tác phẩm văn học đương đại của Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ tập trung
vào kinh dị, hay sử dụng từ tục nhằm gây scandal nhằm nổi tiếng và bán
sách. Ranh giới giữa thanh và tục, giữa thủ pháp nghệ thuật với sự non kém
nghệ thuật, vấn đề đạo đức trong sáng tạo văn học luôn rất khó để minh/nhận định.
Cùng một từ, một bối cảnh, một hành vi, nhưng ở nhà văn có tài, có tâm, thì nó
có thể là một sáng tạo, ngược lại, với những nhà văn kém tài, hoặc có tài song
tâm không trong sáng, thì nó chỉ đơn thuần là một chiêu trò để thu hút độc giả.
Biểu hiện lệch lạc khác trong sáng tác văn
học là kiểu sáng tạo theo bản năng, viết văn “cứ hay là được”, “vô chiêu thắng
hữu chiêu”. Rất nhiều nhà văn hiện nay, cả thế hệ già lẫn thế hệ trẻ cố chấp
tin rằng tài năng thiên bẩm của họ sẽ là tấm hộ chiếu thông hành suốt đời trên
con đường văn chương. Họ chẳng cần bất kỳ một "visa" nào để đi vào những
thế giới khác của nghệ thuật đương đại thế giới.
Có nghĩa là, nhà văn cứ viết theo cảm xúc, nhận
thức cá nhân là được, không cần đọc nhiều các tác giả đồng nghiệp, đọc văn học
thế giới lại càng viển vông xa vời, tất nhiên không cần đọc các tri thức xã hội
nhân văn hay khoa học tự nhiên làm gì cho mất thời gian. Những lý thuyết văn học,
những trào lưu, trường phái văn học thế giới lại càng xa xỉ đối với nhà văn Việt
Nam. Điều này dẫn đến hiện trạng những sáng tác văn học Việt Nam thiên về miêu
tả vấn đề địa phương, về suy tư cá nhân, thời gian bị tù đọng.
Những nhà văn
dẫu tài năng nhất cũng sớm tàn lụi, hoặc mất đi sức sáng tạo, sự cương mãnh
trong tư duy nghệ thuật sau khi những tác phẩm đầu tay đã gây xôn xao văn đàn,
hứa hẹn một sự nghiệp tươi sáng. Họ đã không thể đi xa và đi lâu dài trong thế
giới nghệ thuật, tác phẩm thiếu đi tính tư tưởng, tính thời đại, những kiến thức
đương đại về lý thuyết văn học và những quan điểm mỹ học, triết học mới.
Nhiều nhà văn
ngày nay có thể vẫn có những tác phẩm đáng chú ý, hoặc tác phẩm bán chạy trên
thị trường sách, song họ đã không còn là người tiên phong, người dẫn đầu cho một
thời đại văn học mới. Đơn giản hơn, họ đã không vượt qua được cái bóng của
chính mình trong quá khứ. Chính vì ít đọc, nhất là ít đọc những kiệt tác văn học
thế giới đương đại cùng những lý thuyết văn học, trào lưu và trường phái văn học
mới của thế giới nên nhiều nhà văn ở nước ta ngộ nhận trong sáng tạo.
Trong đời sống
văn học Việt Nam hiện nay, tạo ra những hạn chế và lệch lạc không nhỏ là bộ phận văn
học mạng. Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa, “thế giới phẳng”
theo cách nói của nhà báo người Mỹ T.Friedman, nơi chứng kiến
thân phận của tri thức bị biến thành hàng hóa và được chu chuyển, buôn bán trên
internet. Nhà văn viết bằng bàn phím và mười đầu ngón tay chứ không dùng bút giấy
truyền thống nữa.
Mạng xã hội
trở thành cộng đồng diễn giải chính, là không gian khả dĩ để nhà văn tồn tại,
thay vì thế giới của thực tại. Thế giới ảo đang dần lấn át thế giới thực, từ đó
những tác giả và tác phẩm văn học mạng bước ra văn đàn, lấn át những nhà văn
truyền thống. Hàng loạt nhà văn được đông đảo bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ/nhỏ
tuổi hiện nay yêu mến cuồng nhiệt là nhà văn mạng. Họ chiếm lĩnh thị trường
sách một cách áp đảo so với văn học viết truyền thống. Đa phần họ đều trẻ tuổi,
thông minh, có tài năng.
Tuy nhiên, mặt
trái của văn học mạng, xuất phát từ đặc trưng trong tiếp nhận và bản chất của
ngôn ngữ, đó là nặng về tính giải trí, tính truyền thông đa phương tiện mà yếu
về tính tư tưởng, thiếu chiều sâu về nghệ thuật. Chúng ta không phủ nhận những
đóng góp của văn học mạng. Sự phát triển của nó trong xu thế văn hóa, văn minh
hiện nay là tất yếu, song cũng cần nhận ra văn học mạng chỉ chủ yếu là văn học
giải trí, văn học thị trường hoặc là cận văn học.
Tia chớp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét