Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc căn bản nhất trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Có Đảng lãnh đạo quân đội ta mới thực sự là một quân đội cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho. Trong suốt quá trình tổ chức và lãnh đạo quân đội, để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội, Đảng đã thiết lập và không ngừng củng cố hệ thống tổ chức đảng trong quân đội, làm hạt nhân lãnh đạo ở từng đơn vị. Đảng bộ quân đội đã lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng giao cho, xây dựng đảng bộ quân đội, trưởng thành vững mạnh về mọi mặt, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng không ngừng nâng lên, xứng đáng là lực lượng tiên phong, hạt nhân đoàn kết lãnh đạo ở đơn vị cơ sở.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết
hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa X) “Về nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”;
Nghị quyết số 147-NQ/ĐUQSTƯ “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân
đội”.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào
thời kỳ mới, nhiệm vụ của quân đội có những yêu cầu mới và ngày càng nặng nề,
trong bối cảnh đó, để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng
trong quân đội là một yêu cầu cơ bản và bức thiết trong công tác xây dựng Đảng
hiện nay.
Là tổ chức lãnh đạo của Đảng ở đơn
vị cơ sở. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ chức cơ sở đảng giữ vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tổ chức cơ sở
đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở”. Tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam là tổ chức đảng
được thành lập ở đơn vị cơ sở (trung đoàn, lữ đoàn và đơn vị tương đương; tiểu
đoàn, hải đội và đơn vị tương đương thuộc sư đoàn, vùng Hải quân) theo điều lệ
Đảng, quy định của Bộ chính trị, Ban Bí thư và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung
ương.
Là một phạm trù của công tác xây
dựng Đảng, nó phản ánh phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của
tổ chức cơ sở đảng, được thể hiện ở trên tất cả các khâu, các bước trong chu
trình lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và phải được kết tinh ở kết quả lãnh đạo
đơn vị hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị đặt ra. Năng lực lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng là kết quả tổng hợp phẩm chất, trình độ trí tuệ, năng lực
chuyên môn, phong cách công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên và hiệu quả chấp
hành hệ thống các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo, sinh hoạt Đảng của tổ chức
đảng, đảm bảo cho hoạt động lãnh đạo đó kịp thời, nhanh chóng, chính xác và đạt
kết quả cao.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng là sự thống nhất về ý chí và hành động; là trình độ giác ngộ năng lực trí
tuệ và kinh nghiệm kết hợp lại với nhau thành bản lĩnh vững vàng trước mọi biến
động chính trị, xã hội; là khả năng huy động sức mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, bền vững, sức đề kháng và ý chí
vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi
điều kiện hoàn cảnh, đồng thời kiên quyết đấu tranh làm trong sạch nội bộ Đảng,
ngăn chặn có hiệu quả sự chống phá của kẻ thù và sự tác động của những quan
điểm sai trái, những biểu hiện tiêu cực từ bên ngoài vào tổ chức cơ sở đảng và
đơn vị.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng là hai nội dung thống nhất biện chứng tác động qua lại
lẫn nhau hợp thành một chỉnh thể thống nhất, trong sức mạnh tổng hợp của mỗi tổ
chức cơ sở đảng. Năng lực lãnh đạo càng cao thì sức chiến đấu càng được tăng
cường và ngược lại. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
luôn đi liền không tách rời nhau. Muốn có năng lực lãnh đạo tốt, phải thường
xuyên nâng cao sức chiến đấu và muốn có sức chiến đấu phải không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo. Sự quan hệ chặt chẽ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng càng làm cho tổ chức cơ sở đảng ngày càng vững mạnh, có
chất lượng tổng hợp ngày càng cao. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
lại có tính độc lập tương đối, có những biểu hiện đặc trưng riêng và tính nổi
trội; tính biểu hiện nổi trội ở từng nội dung tuỳ từng nơi, từng lúc cũng khác
nhau, cho nên, trong mỗi nội dung cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nhấn mạnh năng
lực lãnh đạo hay sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Biểu hiện của năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở năng lực quán triệt, cụ thể hoá đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp
trên phù hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị mình, trên cơ sở đó để quyết
định các chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng; năng lực tổ chức triển khai
thực hiện các chủ trương, biện pháp đã được quyết định thành hiện thực trên
thực tế; năng lực tổ chức kiểm tra, kiểm soát quá trình tổ chức thực hiện các
chủ trương, biện pháp đã được quyết định của đội ngũ cán bộ, đảng viên, năng
lực sơ, tổng kết để bổ sung, sửa đổi và phát triển hoàn thiện các chủ trương,
biện pháp đã được quyết định, nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực của
tổ chức cơ sở đảng, đảm bảo chu trình sau lãnh đạo đạt kết quả cao hơn, tốt
hơn. Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được biểu hiện thông qua khả năng huy
động sức mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tạo nên sức mạnh bền vững
vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, kiên quyết
đấu tranh làm trong sạch nội bộ Đảng và chống lại mọi quan điểm, tư tưởng sai
trái thù địch.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng là sản phẩm của trí tuệ và khả năng thực tế của tập thể
được tạo nên nhờ phát huy đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp tác
phong công tác, năng lực tổng hợp của mọi cán bộ, đảng viên trên cơ sở chấp
hành các nguyên tắc, nền nếp, chế độ sinh hoạt Đảng trong hoạt động lãnh đạo và
các mặt công tác của tổ chức cơ sở đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi nối liền
cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng. Vì vậy, là tổ chức đầu tiên
của Đảng nằm ngay trong quần chúng. Tổ chức cơ sở đảng không những cùng quần
chúng phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối, chính sách của Đảng, mà còn làm
nhiệm vụ nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, phản ánh đúng và đầy đủ tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng lên tổ chức đảng cấp trên. Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực
tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức cho quần
chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách ấy. Vì, suy cho đến cùng thì
việc biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành hành động cách mạng
của quần chúng là công việc trước hết của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Tổ chức cơ sở
đảng phải chịu trách nhiệm trước Đảng về đời sống vật chất và tinh thần của
quần chúng nhân dân ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng là nơi giáo dục, rèn luyện, kết
nạp và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát để cử ra
cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của toàn
Đảng và tổ chức đảng các cấp mà trực tiếp là tổ chức cơ sở đảng.
Hiện nay, trong điều kiện Đảng lãnh
đạo chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới, vai trò của tổ
chức cơ sở đảng ngày càng được tăng lên. Đảng Cộng sản Việt Nam phải chịu trách
nhiệm trước giai cấp, trước dân tộc về mọi vấn đề của cách mạng đặt ra. Do vậy,
đổi mới chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
trong đó có tổ chức cơ sở đảng là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay.
Đại hội XII, XIII của Đảng đã xác
định: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt
chẽ, mật thiết với nhau; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển
đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là
nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo
vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường
hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng và
an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững
chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái,
đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ
an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin,
an ninh mạng.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá,
xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã
hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú
trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc
phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
Xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân... Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại
hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao
chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trước những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước sự chống phá của các thế lực
thù địch đối với Đảng ta và cách mạng nước ta. Từ thực trạng công tác xây dựng
Đảng bộ quân đội nói chung và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội
những năm qua. Quán triệt đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây
dựng Đảng và tình hình nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong giai đoạn cách mạng
mới. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng
bộ quân đội, các tổ chức cơ sở đảng trong toàn quân cần quán triệt và triển
khai xây dựng đồng bộ, toàn diện cả chính trị, tư tưởng, tổ chức, có chương
trình hành động cụ thể thiết thực, sát với từng cấp, từng tổ chức đảng, từng
nhiệm vụ chính trị cụ thể,
Tóm
lại, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng chính
là để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đơn vị cơ sở, đảm bảo cho các đơn
vị cơ sở trong quân đội có đủ sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng
lợi trong mọi tình huống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hiện
nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đang
chuyển sang thời kỳ mới, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong giai đoạn mới rất
nặng nề. Tình hình tổ chức cơ sở đảng trong quân đội luôn biến động, do vậy
phải thường xuyên củng cố xây dựng, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo
mới đáp ứng được thực tế đòi hỏi. Đây là trách nhiệm của bản thân tổ chức cơ sở
đảng, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, và cũng là trách nhiệm của mỗi cán
bộ, đảng viên trong quân đội.
Trong thời gian tới, Đảng bộ Quân
đội và nhất là các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân đội cần tiếp tục đổi
mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị. Bám sát
thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc về tư tưởng của cán
bộ, đảng viên, chiến sỹ để có chủ trương lãnh đạo, giải pháp sát thực, kịp
thời; đấu tranh khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội chạy theo
lợi ích cá nhân; chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác
bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Tiếp tục quán triệt
và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về tiếp
tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn
với với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân. Phát
huy năng lực lãnh đạo, đoàn kết thống nhất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên,
chiến sỹ; thực hiện tốt hơn nữa quy chế dân chủ ở cơ sở và nguyên tắc tập trung
dân chủ của Đảng trong các đơn vị, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, góp phần xây dựng đảng TSVM, thực hiện thắng lợi nghị
quyết Đại hội XII, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XIII của Đảng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét