Mới đây trên trang Rfavietnam.com đã
đăng tải bài viết: “Tự do báo chí: Việt
Nam “cá biệt trong nhóm cá biệt”của Andreas Harsono. Liệu những nhận
xét, đánh giá trong bài viết của Andreas Harsono có phản ánh thực chất, khách
quan vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam? Thực chất đây chỉ là chiêu trò cố
tình xuyên tạc tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Bởi, khi quy chiếu thực tiễn
đời sống báo chí ở Việt Nam với quan điểm của cộng đồng quốc tế, chúng ta thấy
rằng:
1. Không có tự do báo chí tuyệt
đối, không điều kiện
Lợi dụng bảng xếp hạng về chỉ số Tự
do báo chí do RFS đưa ra, Andreas Harsono đã cáo buộc rằng: “ở Việt nam người dân chưa bao giờ được hưởng quyền tự do báo
chí” và “tự do báo chí ở Việt Nam vẫn ở
vị trí cá biệt trong nhóm cá biệt”. Rõ ràng đây chỉ là chiêu
trò xuyên tạc, bóp méo tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Mục đích của việc
này không nằm ngoài sự phủ nhận những nỗ lực của nước ta trong xây dựng một môi
trường báo chí lành mạnh. Chúng ta thấy rằng, trong tiến trình phát triển của
nhân loại, chưa bao giờ có “tự do báo chí tuyệt đối” hay “tự do báo chí không
giới hạn”. Nếu ai đó tin rằng có tự do báo chí tuyệt đối, tự do báo chí cho mọi
người thì hoặc là họ ngây thơ về chính trị, hoặc cố tình phủ nhận sự thật. Trên
thực tế, không riêng ở Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia tuy có cách tiếp cận
không giống nhau về quyền tự do báo chí, nhưng đều có một nguyên tắc cơ bản là
việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải phù hợp với tình hình,
điều kiện lịch sử, văn hóa, trình độ dân trí, thể chế chính trị của mỗi nước và
không được phép lợi dụng quyền cơ bản này để xâm hại lợi ích quốc gia-dân tộc,
làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác và ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức
cộng đồng, trật tự xã hội. Thế giới từng có những bài học về việc báo chí đi
quá giới hạn tự do cho phép, nên phải trả giá rất đắt như: tháng 7-2011,
tờ News of the World (Tin tức thế giới) của nước Anh đã phải đình bản
vĩnh viễn sau 168 năm hoạt động vì bị công chúng cáo buộc nhiều phóng viên bản
báo này đã đột nhập điện thoại của hàng nghìn người dân để “săn tin”. Nhắc lại
ví dụ trên để thấy, trên thế giới không có quốc gia nào cho phép tự do báo chí,
tự do ngôn luận “đứng trên, đứng ngoài” luật pháp và xâm hại đến an ninh quốc
gia. Nếu vi phạm điều này, báo chí sẽ bị công chúng tẩy chay và bị những chế
tài xử lý thích hợp. Như vậy, những luận điệu mà Andreas Harsono đưa ra chỉ là
sự quy chụp, xuyên tạc để “bẻ cong” tình hình tự do báo chí Việt Nam mưu đồ
hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền
báo chí cách mạng Việt Nam mà thôi.
2. Thành tựu về tự do báo chí ở
Việt Nam là không thể phủ nhận
Là quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc,
Việt Nam đã sớm tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ
bản của con người và quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí. Để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được hiện
diện trong thực tiễn cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật
Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí. Trong đó, Điều 13 luật này nêu rõ: “Nhà
nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo
chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không
ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”.
Như vậy, về mặt pháp lý, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân ở
Việt Nam đã được quy định toàn diện, đầy đủ, với những nội dung cụ thể, dễ
hiểu, dễ áp dụng, dễ thực hiện trong cuộc sống. Thành tựu của tự do ngôn luận,
tự do báo chí, ở Việt Nam đã được thể hiện rất rõ qua sự phát triển đa dạng về
loại hình và phong phú về nội dung của hệ thống báo chí, truyền thông. Theo Bộ
Thông tin và Truyền thông, hiện nay có 851 cơ quan báo chí, 20.000 phóng viên,
50.000 người làm việc ở các cơ quan báo chí với hàng nghìn ấn phẩm các loại,
lượng phát hành hơn 600 triệu bản/năm. Những năm qua, báo chí ở Việt Nam tiếp
tục giữ vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của Nhân dân;
chủ động, kịp thời, thông tin hiệu quả về những vấn đề lớn của đất nước, có nội
dung thông tin thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, định hướng dư luận và tạo sự đồng
thuận xã hội. Báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; luôn tích cực đấu tranh với các biểu hiện
sai trái, tiêu cực trong xã hội, góp tiếng nói quan trọng vào việc phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, đồng thời là cầu nối quan trọng với bạn bè quốc tế. Điểm qua vài nét
như vậy đã đủ thấy bức tranh sinh động về tự do báo chí ở Việt Nam. Đây là minh
chứng cho thấy những luận điệu của Andreas Harsono đã quá lạc lõng, chúng ta
chẳng lạ gì động cơ, mục đích từ những bài viết này.
Báo chí Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân
tộc Việt Nam, cùng nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quyền tự do báo chí của người dân
Việt Nam, của các nhà báo Việt Nam được pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Đó là
thực tế hiển nhiên không thể xuyên tạc và phủ nhận.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét