Mở
đầu
Đô
thị hóa là xu thế phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Đó là việc
gia tăng không gian, hoặc mật độ dân cư, hoặc thương mại, hoặc các hoạt động
khác trong một khu vực nhất định theo thời gian.
Tiểu luận: Sinh viên học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí MinhTiểu luận: Sinh viên và thất nghiệp
Đô thị hóa luôn đồng hành cùng quá trình di cư từ nông thôn vào thành thị. Chính dòng di cư này đã tạo ra sự thịnh vượng cho các đô thị, song bản thân nó cũng đẻ ra vô số hệ lụy cho đô thị như là nạn thất nghiệp gia tăng, ách tắc giao thông ngày càng thêm trầm trọng, thiếu nhà ở, vệ sinh môi trường kém, thiếu trường học, thiếu dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, tệ nạn xã hội gia tăng… Báo cáo này đi vào nghiên cứu nguồn gốc của việc di cư để từ đó đề xuất các biện pháp nhằm chủ động kiểm soát dòng di cư trong quá trình đô thị hóa.
Đô thị hóa luôn đồng hành cùng quá trình di cư từ nông thôn vào thành thị. Chính dòng di cư này đã tạo ra sự thịnh vượng cho các đô thị, song bản thân nó cũng đẻ ra vô số hệ lụy cho đô thị như là nạn thất nghiệp gia tăng, ách tắc giao thông ngày càng thêm trầm trọng, thiếu nhà ở, vệ sinh môi trường kém, thiếu trường học, thiếu dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, tệ nạn xã hội gia tăng… Báo cáo này đi vào nghiên cứu nguồn gốc của việc di cư để từ đó đề xuất các biện pháp nhằm chủ động kiểm soát dòng di cư trong quá trình đô thị hóa.
I.
Một số vấn đề cơ bản về di dân từ nông thôn ra thành thị trong quá trình đô thị
hóa ở Việt Nam hiện nay
1.1. Đô thị hóa và
quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỷ lệ phần
trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của
một vùng, một khu vực hoặc quốc gia. Đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng
không gian, hoặc mật độ dân cư, hoặc thương mại, hoặc các hoạt động khác trong
một khu vực nhất định theo thời gian. Quá trình đô thị hóa có thể diễn ra thông
qua sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị, hoặc sự phát triển tự
nhiên của dân cư hiện có. Tuy nhiên, trong thực tế quá trình đô thị hóa tại các
quốc gia đang phát triển chủ yếu là thông qua quá trình chuyển dịch dân cư vì
quá trình phát triển dân cư tự nhiên thường không mạnh, do mức độ tăng trưởng
dân cư tự nhiên của thành phố thấp hơn nông thôn.
Có thể nói rằng quá trình di cư từ nông thôn vào thành thị
là tiền đề, đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa. Sẽ không
có quá trình đô thị hóa, nếu không có sự di cư.
Ở Việt Nam trong những năm qua, cùng với quá trình CNH, HĐH
đất nước, tốc độ đô thị hóa cũng diễn ra vô cùng nhanh chóng. Sự phát triển
mạnh mẽ của các đô thị trên phạm vi cả nước đã dẫn đến sự tập trung với quy mô
và tốc độ ngày càng cao của cư dân đô thị, đặc biệt là dòng di cư của lao động
nông thôn vào các thành phố tìm việc làm. Chính dòng di cư lao động này đã tạo
ra sự thịnh vượng cho các đô thị, song bản thân nó cũng đẻ ra vô số hệ lụy mà
đô thị phải gánh chịu đó là nạn thất nghiệp, ách tắc giao thông, thiếu nhà ở,
vệ sinh môi trường kém, thiếu trường học, thiếu dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe…
Việc nhận thức đúng đắn quy luật di cư để từ đó có các biện
pháp hữu hiệu nhằm chủ động trong việc kiểm soát dòng di cư trong quá trình đô
thị hóa luôn là bài toán hóc búa, nhưng đồng thời là mong muốn cháy bỏng của
các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, các nhà quản lý đô thị cũng như các chính
sách xã hội hiệu quả.
Dưới
góc độ lý thuyết, để lý giải cho nguồn gốc sự di dân từ khu vực nông thôn vào
thành thị diễn ra trong quá trình đô thị hóa, đã có nhiều nhiều mô hình lý
thuyết khác nhau, trong đó được thừa nhận rộng rãi nhất phải kể đến các mô hình khu vực kép (Dual Sector Model) của Arthur Lewis và mô hình thu nhập kỳ vọng (Expected Income Model) của Harris – Todaro.
Mô hình khu vực kép giải
thích hiện tượng lao động dư thừa từ khu vực sản xuất nông nghiệp truyền thống
(đặc trưng cho nông thôn) được chuyển dịch sang các ngành sản xuất chế biến
hiện đại (đặc trưng cho đô thị) trong quá trình công nghiệp hóa, với giả định
rằng, trong nền kinh tế chỉ tồn tại 02 khu vực: khu vực sản xuất nông nghiệp
truyền thống và khu vực sản xuất chế biến hiện đại. Ngành nông nghiệp truyền
thống phổ biến là lao động thủ công, năng suất thấp nên có mức lương thấp.
Ngược lại, các ngành sản xuất chế biến hiện đại thường có năng suất cận biên
cao, mức lương cao hơn khu vực kinh tế nông nghiệp, và có nhu cầu tăng thêm lao
động. Mô hình cũng giả định việc cải thiện năng suất cận biên của lao động
trong ngành nông nghiệp ít được ưu tiên hơn tại các quốc gia đang phát triển.
Điều này dẫn đến xu hướng chuyển dịch các khoản “lợi nhuận ròng” thu được từ
khu vực sản xuất nông nghiệp sang các ngành sản xuất công nghiệp.
Do sản xuất nông nghiệp
bị hạn chế về mặt diện tích đất sản xuất, do đó sản phẩm cận biên tăng thêm của
một nông dân được giả định sẽ tiến đến zero theo quy luật “lợi nhuận biên giảm
dần”. Kết quả là, trong ngành nông nghiệp tồn tại một số lượng lao động không
đóng góp làm tăng sản lượng nông nghiệp kể từ khi sản phẩm cận biên của họ bằng
không. Nhóm nông dân này chính là nguồn “lao động dư thừa” từ khu vực nông
nghiệp. Do có sự khác biệt về tiền lương giữa ngành sản xuất nông nghiệp và các
ngành sản xuất chế biến hiện đại nên đội quân lao động dư thừa này sẽ được dịch
chuyển tới các ngành sản xuất khác mà không làm ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra
của ngành nông nghiệp.
Nếu số lượng
người lao động di chuyển từ nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất khác bằng với số
lượng “lao động dư thừa” trong lĩnh vực nông nghiệp, phúc lợi và năng suất
chung sẽ được cải thiện. Tổng số sản phẩm nông nghiệp sẽ vẫn không thay đổi
trong khi tổng sản phẩm công nghiệp tăng lên do việc bổ sung thêm lao động.
Theo thời
gian, việc tăng thêm lao động sẽ làm cho năng suất lao động và mức tiền lương cận biên trong lĩnh vực sản xuất chế biến
dần dần giảm xuống trong khi đó năng suất cận biên và tiền lương trong sản xuất
nông nghiệp dần tăng lên do lao động kém hiệu quả bị rút bớt. Kết quả là năng
suất lao động cận biên trong nông nghiệp tiến tới cân bằng với năng suất lao
động cận biên của các ngành sản xuất khác, mức lương trong ngành nông nghiệp
cân bằng với mức lương trong các ngành sản xuất khác, người lao động nông
nghiệp không còn động cơ tiền bạc để chuyển dịch, quá trình di cư chấm dứt.
Mô hình khu
vực kép đã tỏ ra thành công trong việc lý giải quá trình dịch chuyển lao động
từ khu vực nông thôn vào thành thị tại các nước phát triển. Tuy nhiên, hạn chế
của mô hình này không lý giải được hiện tượng dòng người nhập cư vẫn ào ạt đổ
về thành phố trong khi tình trạng thất nghiệp đang diễn gay gắt tại các nước
đang phát triển.
Khác với mô
hình khu vực kép của Arthur Lewis lý giải nguồn gốc của việc di cư dựa vào giả
định “dư thừa lao động” trong khu vực nông thôn, mô hình Harris – Todaro giải
thích quyết định của người lao động di cư từ khu vực nông thôn ra thành thị dựa
trên sự khác biệt về thu nhập kỳ vọng giữa nông thôn và đô thị. Điều này ngụ ý
rằng, sự di cư từ nông thôn ra đô thị trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị
cao, có thể được lý giải về mặt kinh tế, nếu thu nhập kỳ vọng từ khu vực đô thị
cao hơn.
Mô hình này
giả định rằng, tỷ lệ thất nghiệp là không tồn tại trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn. Ngoài ra, nó còn giả định rằng thị trường sản xuất và thị trường lao
động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn cạnh tranh hoàn hảo. Kết quả là, tiền
lương của các công nhân nông nghiệp ở nông thôn bằng với năng suất cận biên
trong nông nghiệp. Mô hình cũng cho rằng, trạng thái cân bằng sẽ được thiết lập
khi mức lương kỳ vọng tại khu vực đô thị bằng với sản phẩm cận biên của một
công nhân nông nghiệp. Tại trạng thái cân bằng, tỷ lệ lao động các vùng nông
thôn di chuyển đến đô thị sẽ bằng không khi thu nhập kỳ vọng ở nông thôn bằng
với thu nhập kỳ vọng ở đô thị. Nói cách khác, mức lương kỳ vọng trong nông
nghiệp bằng với mức lương kỳ vọng ở đô thị nhân với số lượng việc làm có sẵn
trong đô thị chia cho tổng số người đang có việc làm và cần tìm việc làm ở đô
thị.
Mô hình Harris – Todaro cho phép giải thích được lý do tồn
tại tình trạng thất nghiệp ở các đô thị tại các nước đang phát triển, và tại
sao người dân lại chuyển tới các thành phố mặc dù đang tồn tại nan giải vấn đề
thất nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, mô hình Harris
– Todaro thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế phi chính thức
(Informal Sector). Đó là khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động, không hoàn toàn
là bất hợp pháp, nhưng thường cũng không được sự thừa nhận chính thức của xã
hội và hầu hết các hoạt động này đều không đăng ký với nhà nước. Chẳng hạn như
lao động phục vụ gia đình, hành nghề tự do, xe ôm, bán hàng rong, mài dao kéo,
dịch vụ ăn uống vỉa hè, thu lượm ve chai đồng nát, đánh giày, sơn đông mãi võ,
mại dâm v.v...
Việc di cư ồ ạt của lao
động nông thôn vượt quá khả năng tạo việc làm ở khu vực đô thị, kết quả là
nhiều người lao động không tìm được việc làm
trong khu vực kinh tế chính thức, phải chấp nhận bổ sung vào khu vực kinh
tế phi chính thức.
Sự hiện diện của khu vực
kinh tế phi chính thức đã giúp giải thích cho việc tại sao tỷ lệ thất nghiệp
tại các đô thị cao nhưng vẫn có hàng dòng người từ nông thôn đổ vào thành thị
tìm việc làm. Bởi vì họ sẵn sàng bổ sung vào
khu vực kinh tế phi chính thức, nơi đồng tiền kiếm được vẫn cao hơn ở
lại nông thôn. Ngay cả khi sự di chuyển này tạo ra
thất nghiệp tại các đô thị và dẫn đến sự phát triển không mong đợi ở khu vực
kinh tế phi chính thức, thì hành vi này vẫn được xem là hợp lý xét về khía cạnh
kinh tế vì nó tối đa hóa lợi ích trong các điều kiện mà mô hình Harris – Todaro
giả định.
Vì vậy, xét trên tổng thể
để kiểm soát di cư từ nông thôn vào thành thị trong quá trình đô thị hóa cần
giải quyết đồng bộ tất cả các vấn đề trên cả 03 khu vực kinh tế bao gồm: khu
vực kinh tế đô thị chính thức; khu vực kinh tế đô thị phi chính thức và khu vực
nông thôn.
1.2. Thực trạng và nguyên
nhân di dân từ nông thôn ra thành thị trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
hiện nay.
1.2.1.
Về thực trạng
Di cư từ nông thôn ra thành thị ở nước ta ngày
càng có xu hướng gia tăng và có tính phổ biến rộng khắp
trên các vùng nông thôn trong cả nước: Theo kết quả của các cuộc Tổng điều tra
dân số năm 1999 và năm 2009, thì qui mô di cư trong nước
năm 1999 là 4,5 triệu người (chiếm khoảng 6,5% dân sổ), sau 10 năm con số này
đã đến 6,5 triệu người (chiếm khoảng 7,57% dân số), rõ ràng người di cư đã tăng
mạnh hơn nhiều so với tăng dân số. Việc di cư lao động nông thôn tập trung
nhiều đến các thành phố lớn như: TP. HCM chiếm 31% dân số của địa phương, thậm
chí có tới 50% dân sổ là người di cư trong 7/24 quận/huyện cùa thành phố; ở Hà
Nội dân số di cư chiếm tới 10% dân số; và Đà Nẵng con số này là khoảng 6,4%.
Di cư lao động từ
nông thôn ra thành thị ở nước ta ngày càng có xu hướng trẻ hóa. Theo kết quả điều tra gần đây cho thấy lao
động di cư từ nông thôn ra thành thị phần lớn thuộc nhóm dân cư trẻ tuổi (18-30
tuổi) và chưa kết hôn. Tuy phần lớn sổ người di cư là nam giới nhưng nữ giới lại có xu hướng di cư trẻ hơn nam
giới, tỷ lệ nữ di cư ở độ tuổi dưới 25 tuổi chiếm 55,4% còn nam chiếm 42,4%.
Mục đích di cư chù yếu là đề tìm kiếm việc làm, lao động kiểm sống và cài thiện
tim nhập. Nhưng nhìn chung, phụ nữ thường có nhiều trách nhiệm về kinh tế gia
đình hơn nam. Tuy vậy, phần lớn vẫn là những đối tượng thuộc nhóm yếu
thế: Nhiều kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy lao động nông thôn di cư ra
thành phố làm rất nhiều
nghề hoặc việc làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao
dộng phổ thông
và giản đơn (làm thuê trong các công trường xây dựng, các cơ sở
sản xuất, tái chế nhựa, may mặc, da giày, bảo vệ,...),
bán hàng rong, giúp việc gia đình... Phần lớn làm việc trong các cơ sở kinh tế
thuộc khu vực phi chính thức như các cơ sở kinh tế
tư nhân, kinh tế gia đinh hoặc tự làm việc... Nên tỷ lệ được ký hợp
đồng lao động thấp, hoặc có hợp đổng lao động thi chủ sử dụng
lao động cũng ít quan tâm đến việc thực hiện bảo hiểm xã hội và các phúc lợi xã hội khác đối với người lao động trong các cơ sở kinh tế
thuộc khu vực phi chính thức.
Mặt khác, lực lượng lao động di cư ra thành thị có thể bị mất việc làm bất cứ
lúc nào, là hiện tượng khá phổ biển, theo sổ liệu diều tra của Viện Chính sách
và Chiến lược NN&PTNT tại 4 tỉnh Nam Định, Lạng Sơn, Bình Thuận, An Giang
trong năm 2009 cho thấy, có 21.7% lao động di cư dã bị mất việc làm phủi trở về
quê. Do khủng hoảng kinh tể toàn cầu đã tác dộng tiêu cực tới việc làm của lao
động nông thôn. Theo Ông Đặng
Đình Long, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tư vấn phát triển, kết quả từ dự án "Tình
hình di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trong
bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO" công bố ngày 26/8/2013 tại Hà Nội cho
biết: Nguyên nhân khiến người lao động di cư là do việc làm ở địa phương thu
nhập thấp (chiếm trên 45%) và không có việc làm (chiếm trên 38%). Đặc biệt,
trên 66% lao động di cư không có chuyên môn kỹ thuật. Tuy nhiên, có tới gần 60%
đối tượng di cư đầu tiên có việc làm ngay, nhưng chủ yếu là lao động giản đơn,
cho nên hơn 44% lao động di cư cho rằng không cần học thêm kỹ năng, nghiệp vụ
nào để làm quen với công việc hiện tại.
Dòng lao động di cư từ nông thôn ra đô thị tìm việc
làm với nhiều hình thức và quy mô khác nhau, Có thể đi một mình
hoặc có thể đi cùng bạn bè, họ hàng, người thân trong gia đình, hoặc qua các kênh tuyển dụng của các công
ty, doanh nghiệp, hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm... nhưng chủ yếu là đi
cùng bạn bè trang lứa cùng làng, xã... Qua điều
tra có 24,2% người di cư ra đô thị làm việc cùng người nhà; 14,8% cùng những người thân
trong dòng họ; 41,2% người di cư đi cùng những người bạn bè cùng làng, xã, theo
các kênh có
tổ chức thông qua các trung tâm 7.0% và các hình thức khác 14,%... Điều này
phản ánh tính kết cấu cộng đồng của những người di dân rất cao thông qua hình
thức di chuyển theo nhóm (cùng bạn bè, làng, xã) là cơ sở tạo cho người di dân
có được tâm lý an toàn khi di chuyển.
1.2.2.
Về nguyên nhân
Di cư từ nông thôn ra thành thị thời gian qua
ngày càng gia tăng và có tính rộng khắp trên các vùng nông thôn trong cả nước, có những
thời điểm diễn ra trên bình diễn rộng với qui mô lớn. Tình hình
trên tuy có nhiều nguyên nhân song có thể khái quát có các nhóm
nguyên nhân chính dưới tác động của các yếu tố “đẩy” và “hút” lao đông từ nông
thôn di cư ra thành thị là:
Thứ nhất, do sự
gia tăng dân số và sức ép về lao dộng việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng
gia tăng.
Tỷ lệ tăng dân số ở nước ta hiện nay có mức
1,5%/năm. Trong kh
u vực nông thôn tăng trên 1,8%/năm. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và thu hút của các ngành
thêm và kèm theo dó là
đất đai nông nghiệp bị thu hẹp cho phát triền công nghiệp và đô thị.
2.3.
Tình trạng (lo phát triển không đều, sự
chênh lệch về tliu nhập, mứcsốHỊ! giữa nông tliôn thành thị và ngày
càrtỊỊ có xu hướng doânh ra là một trong nhũ/iỊỉ nguyên nhăn có sức hút (li cư
từ nông thôn ra thành thị. Cuộc sống cùa đa sổ người nông dân, đặc biệt các hộ thuần nông vả các vùng
sản xuất gặp khó khăn.... thu nhập thấp và cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Tình
trạng nghèo, đói, cơ sơ phúc lợi yếu kém, đời sống văn hóa tinh thần thiếu so
với thành thị. Sàn xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khản, chi phi sản xuất cao và
nhiều rủi ro... Chênh lệch thu nhập và mức sống đă tạo nên lực đầy chủ yếu dòng
người di cư vào thành thjế Theo Harris - Todaro vấn đề di cư nông thôn ra thành thị xét về cường dộ và qui mô.
theo hàm số về mức độ di cư (Mị).
chấp nhận rui ro và thách thức, bời không có
lựa chọn nào khác. Mỗi khi chênh lệch thu nhập và cuộc sổng giữa thành thị và
nông thôn còn có khoảng
cách.
2.4.
Nịịoìũ mức thu nhập cỏ tính hấp dẫn nêu
trên còn có các điều kiện và lý do khác như: học hành vả nâng cao trình độ nghề nghiệp, và
tiếp cận với văn minh và môi trường sống đô thị về y tế, cơ sở hạ tầng vui chơi giải trí... tạo nên tâm lý
thích ra thành thị, nhất là đối với thanh niên muốn học hành và thay đồi môi
trường sống... Theo điều tra ở một số tinh cho thấy các nguyên nhân/lý do di cư
nông thôn ra thành phổ dưới nhiều hình thức, lý do khác nhau và quyết định di
cư có sự tác động cùa nhiều động lực khác nhau. Nhưng về kinh tế vẫn là động
lực chính đối với người dân nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm chiếm trên
85%. Diều đó cho thấy tim việc làm tìm kiếm thu nhập như là một giải pháp về “sinh kế".
Với mục đích lớn nhất là tim việc làm đề nâng cao thu nhập, nhằm cải thiện cuộc
sống cho gia đình.
1. Một
số khuyến nghị dưới góc độ chính sách
Chúng ta đã thấy được từ
mô hình Harris – Todaro là vấn đề di dân tới
các thành phố có thể mang lại lợi ích cá nhân cho bản thân người nhập cư, và
dựa trên phân tích hợp lý lợi ích/chi phí. Tuy nhiên, đứng về mặt xã hội, tình
trạng đó có thể gây ra nhiều vấn đề không mong muốn mà xã hội phải trả giá đắt
cho việc đó. Mô hình này cũng ngụ ý rằng, muốn kiểm
soát dòng di cư từ khu vực nông thôn vào đô thị, cần giải quyết đồng bộ 02 vấn
đề lớn đó là cải thiện thu nhập cho khu vực nông thôn và giảm cơ hội có việc
làm ở đô thị, tức là tìm cách đưa các hoạt động kinh tế có khả năng tạo ra
nhiều việc làm, thu nhập từ khu vực đô thị về nông thôn và kiểm soát chặt chẽ
khu vực phi chính thức. Cụ thể, để kiểm soát di cư, chính phủ các nước đang
phát triển cần tiến hành các giải pháp sau đây:
1.1. Phải
giảm bớt sự thiên lệch đối với chính sách phát triển đô thị và nông thôn. Giảm
thiểu bất cân bằng về các cơ hội kinh tế giữa nông thôn và thành thị.
Việc thực thi chính sách
phát triển thiên lệch của chính phủ tại các nước đang phát triển đã kéo theo
quá trình “đô thị hóa cưỡng bức” bởi các quyết định hành chính dẫn đến hình
thành nhiều đô thị mới, nâng cấp, mở rộng thêm hàng loạt đô thị hiện có. Chính
điều này đã làm cho tình trạng mất cân đối về đầu tư giữa khu vực đô thị và
nông thôn ngày càng thêm gay gắt. Trong điều kiện nguồn lực quốc gia bị hạn
chế, việc cùng lúc xuất hiện nhiều đô thị đã dẫn đến dòng vốn đầu tư đổ vào khu
vực đô thị tăng nhanh, kích thích mạnh mẽ dòng dịch chuyển dân cư từ nông thôn
vào thành thị vì có nhiều cơ hội kiếm được việc làm với thu nhập cao hơn. Tuy
nhiên, do việc hình thành và phát triển đô thị quá nhanh, trong phút chốc hàng
triệu nông dân bỗng trở thành cư dân đô thị, trong khi các tiền đề cơ bản để
đảm bảo cho cuộc sống, cho hoạt động kinh tế và tâm lý của người dân chưa được
chuẩn bị kỹ lưỡng đã làm cho công tác quản lý đô thị gặp rất nhiều khó khăn.
Mặt khác, do việc nguồn
vốn của toàn xã hội bị hút vào khu vực đô thị, dẫn đến nông thôn không được đầu
tư thỏa đáng nên không tạo thêm được nhiều việc làm, năng suất lao động cận
biên trong nông nghiệp thấp nên tiền lương trong khu vực này thấp, không giữ
chân được người lao động tại nông thôn. Dòng người đông đúc từ nông thôn đổ dồn
vào thành phố, một mặt do ở nông thôn thiếu việc làm hấp dẫn, mặt khác do tỷ lệ
sinh đẻ ở khu vực này thường cao đã làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp
tại các đô thị, làm gia tăng nhanh chóng số lao động trong khu vực phi chính
thức.
Vì vậy, muốn kiểm soát
dòng di cư từ nông thôn vào thành thị, chính phủ các nước cần cân nhắc chính
sách đầu tư, tránh thiên lệch cho khu vực đô thị, dẫn đến “bỏ rơi” nông thôn
như hiện nay.
1.2. Các
nhà hoạch định chính sách phải nhận thức được rằng việc tạo ra công ăn việc làm
ở thành thị nhiều hơn có thể không phải là giải pháp để giải quyết vấn đề thất
nghiệp ở đô thị
Trong chính sách giải
quyết việc làm hiện nay, các cấp chính quyền thành phố thường nghĩ rằng việc
tạo ra nhiều công ăn việc làm trong thành phố sẽ giúp giải quyết áp lực thất
nghiệp cho khu vực đô thị. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy, trong điều
kiện thị trường lao động tự do, khi cơ hội việc làm ở đô thị tăng lên sẽ kéo
theo sự kỳ vọng về có việc làm tăng lên trong khi thu nhập từ khu vực nông thôn
không được cải thiện. Theo lý thuyết của Harris – Todaro,
điều này tất yếu sẽ kéo theo dòng dịch chuyển lao động nhập cư từ khu vực nông
thôn vào thành phố, làm cho tình trạng thất nghiệp càng trở nên trầm trọng tại
các đô thị ở các nước đang phát triển.
Vì
vậy, muốn giải quyết thất nghiệp ở đô thị, các nhà quản lý vĩ mô cần hướng vào
phát triển các ngành nghề đòi hỏi chất lượng lao động cao, hàm lượng tri thức
cao nhưng không đòi hỏi sử dụng nhiều lao động tại đô thị. Chính sách này một
mặt vẫn đảm bảo cho sự thịnh vượng của các đô thị, mặt khác không dẫn đến tình
trạng thu hút quá đông lao động từ nông thôn vào thành thị, vì không có nhiều
cơ hội có việc làm tại đô thị cho bộ phận lao động có chuyên môn thấp, vốn rất
đông đúc ở khu vực nông thôn.
Việc làm giảm các cơ hội
việc làm đối với lao động có chuyên môn thấp ở khu vực đô thị cũng góp phần đảm
bảo cho mật độ dân cư tại các đô thị không quá cao, làm giảm cơ hội tham gia
vào khu vực kinh tế phi chính thức.
Cùng với giải pháp đó,
các thành phố cần tăng cường trách nhiệm trong việc hợp tác với các địa phương
khác trong khu vực để đẩy mạnh phát triển kinh tế tại khu vực nông thôn nhằm
giữ chân lao động tại chỗ. Cần quy hoạch phát triển các ngành sử dụng nhiều lao
động ra xa các đô thị lớn; kéo dãn các hoạt động thương mại, dịch vụ vốn rất
thịnh hành tại thành phố ra các khu vực ngoại ô nhằm tăng cơ hội tiếp cận việc
làm phù hợp cho lao động nông thôn.
1.3. Câu
trúc lại nền giáo dục quốc gia hướng cân đối giữa đào tạo lao động trình độ cao
với đào tạo nghề
Với cấu trúc thị trường
lao động tại các quốc gia đang phát triển thường bao gồm khu vực thành thị
chính thức, khu vực thành thị phi chính thức (còn gọi là khu vực phi chính
thức), và khu vực nông thôn (theo Gillis và các cộng sự 1996). Xu thế của một xã hội phát triển là giảm tương đối về mặt
tỷ trọng của lao động trong khu vực nông nghiệp và thành thị phi chính thức,
tăng tỷ trọng lao động trong khu vực thành thị chính thức. Vì vậy, luôn
có nhiều người mong muốn được làm việc trong khu vực lao động “thành thị chính
thức”.
Tại các nước đang phát
triển, nhằm mục đích đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, nên ngân sách nhà nước
thường chi một phần rất lớn cho giáo dục. Điều này đã tạo ra cơ hội cho nhiều
người lao động được hưởng dịch vụ đào tạo giá rẻ dẫn đến bùng nổ nhu cầu học
tập, đặc biệt là học đại học để mong có được 01 chỗ làm việc trong khu vực
“thành thị chính thức”. Kết quả là nguồn cung lao động trình độ đại học trong
khu vực “thành thị chính thức” luôn có xu hướng vượt nhu cầu. Trong điều kiện
đó, người tốt nghiệp đại học dần dà phải đảm đương các công việc của những
người tốt nghiệp trung học, thậm chí là các công việc của những người lao động
phổ thông… gây áp lực thất nghiệp cho các đô thị.
Để khắc phục tình trạng
này, hệ thống đào tạo quốc dân cần phải có sự điều chỉnh theo hướng xác định rõ
mục tiêu đào tạo nghề nghiệp có 02 loại: đào tạo chuyên gia và đào tạo người
lao động. Đối với mục tiêu thứ nhất, cần phải tập trung phát triển theo hướng
“đào tạo tinh hoa”, đào tạo có chọn lọc nhưng yêu cầu rất cao. Còn lại là “đào
tạo đại chúng” với mục đích cung ứng lao động thông thường cho xã hội. Đối với
đào tạo này cần cân nhắc tỷ lệ giữa đào tạo đại học và đào tạo nghề theo nguyên
tắc: trả công việc về đúng trình độ của người lao động.
1.4. Sử
dụng linh hoạt công cụ trợ cấp đối với khu vực nông thôn để cải thiện thu nhập
thực tế cho người lao động, giảm áp lực di cư
Động lực thúc đẩy lao
động nông thôn tràn vào thành thị tìm việc làm xuất phát từ sự kỳ vọng về có
việc làm ở đô thị và mức lương được nhận. Vì vậy, để hạn chế dòng dịch chuyển
này trong điều kiện vẫn đảm bảo cho phúc lợi xã hội cân bằng ở mức cao, ngoài
việc tạo ra các cơ hội việc làm tốt hơn ở khu vực nông thôn, hạn chế phát triển
các ngành nghề sử dụng nhiều lao động trình độ thấp ở đô thị như đã được giới
thiệu trong các định hướng trên. Một hướng khác cũng cần được quan tâm, đó là
làm tăng thu nhập kỳ vọng ở nông thôn để hạn chế dòng người di cư từ nông thôn
lên thành thị. Trong điều kiện kinh tế thị trường, mức lương ở khu vực nông
thôn (Wr) phụ thuộc vào năng suất lao động
biên trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, thường thấp hơn ở khu vực đô thị. Vì
vậy, để không khuyến khích lao động nông thôn vào thành thị cần sử dụng 01
khoản trợ cấp của chính phủ (S) bổ sung cho mức tiền lương (Wr).
Việc tăng cường các khoản
trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đồng thời
cắt giảm các trợ cấp ở khu vực đô thị sẽ có tác dụng đẩy điểm cân bằng về lợi
ích lên cao hơn, ứng với một mức lương như cũ (Wr), tức là làm giảm
áp lực dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn vào thành thị trong điều kiện
những yếu tố khác không đổi. Nguồn trợ cấp này có thể được huy động đóng góp từ
khu vực đô thị thông qua việc thu các loại phí như: phí ô tô, phí nước thải,
phí môi trường… và các khoản đóng góp khác từ ngân sách quốc gia được trích từ
các chương trình chống ách tắc giao thông, chống tệ nạn xã hội, giải quyết thất
nghiệp, nhà ở cho người nghèo vv…
Việc sử dụng các khoản trợ cấp này cho khu vực nông nghiệp, nông thôn là hoàn
toàn hợp lệ vì nó nằm trong “Hộp xanh” (Blue Box), vốn được WTO cho phép.
1.5. Các
chương trình phát triển vùng nông thôn nên được khuyến khích. Các chính sách tập
trung vào cả nguồn thu từ khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp đều phải được
chú trọng
Tăng cường các chính sách
khuyến khích đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn để thu hút các nguồn vốn
đầu tư từ các khu vực kinh tế khác, hạn chế dòng chảy “lợi nhuận ròng” từ khu
vực nông thôn đổ dồn về thành phố.
Khi nghiên cứu về tác
động của các trang trại nhỏ đối với quá trình đô thị hoá ở Thung lũng San
Jaoquin, California, Hoa Kỳ năm 1940, Walter Goldschmidt đã nhận thấy “Tình
trạng các khoản thu nhập kiếm được từ hoạt động nông nghiệp đã bị rút ra khỏi
khu vực nông thôn để đầu tư vào các xí nghiệp công nghiệp tại các thành phố,
chính điều này đã “giết chết” khu vực nông thôn”[1].
Điều này cũng đang diễn
ra tại Việt Nam ,
việc các trang trại nuôi tôm, trồng cà phê, tiêu, cao su ở các vùng nông nghiệp
tập trung ở nước ta đã thu được những khoản lợi nhuận rất lớn trong các giai
đoạn nhất định. Tuy nhiên, khoản lợi nhuận rất lớn này hầu như không được giữ
lại trong khu vực sản xuất nông nghiệp để tái sản xuất, hầu hết chúng đã được
rút ra để đầu tư vào bất động sản ở các đô thị lớn hoặc chuyển hướng đầu tư
sang công nghiệp, dịch vụ. Vì vậy, chương trình phát triển vùng nông thôn cần
phải được khuyến khích để thu hút các nguồn vốn đầu tư của xã hội kể cả nguồn
vốn tích lũy trong bản thân khu vực nông nghiệp nông thôn đầu tư cho nông thôn
sẽ là chính sách quan trọng, lâu dài để giải quyết vấn đề di dân, thất nghiệp
và xã hội tại các đô thị tại các nước đang phát triển.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1]
Goldschmidt, Walter (1978),
“The Communities of the San Joaquin
Valley: The Relationship between Scale of Farming, Water Use, and the Quality
of Life”, Testimony before the House Subcommittee on Family Farms, Rural
Development, and Social Studies, Sacramento, CA, October 28, 1977.
[2]
Amano, M. (1983): “On the
Harris-Todaro Model with Intersectoral Migration of Labour”, Economica:
311-323.
[3]
Bhattacharya, B. (1993):
“Rural-Urban Migration in Economic Development,” Journal of Economic Surveys,
7 (3): 243-281.
[4]
Todaro, M. P. (1976):
“Internal Migration in Developing Countries: A Review of Theory, Evidence,
Methodology and Research Priorities,” International Labour Office, Geneva .
[5]
Todaro, M. P. and J.
Harris (1970): “Migration Unemployement and Developement: A Two Sectors
Analysis,” American. Economic. Review, 60 (1):126-42.
[6]
Todaro, M. P. and J.
Harris (1976): “Urban Job Expansion, Induced Migration and Rising Unemployment:
a Formulation and Simplified Empirical Test for LDCs,” Journal of
Development Economics, 3 (3): 211-22.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét