CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BLOG GIỮ TRỌN LỜI THỀ

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ DI DÂN TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Mở đầu
Đô thị hóa là xu thế phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Đó là việc gia tăng không gian, hoặc mật độ dân cư, hoặc thương mại, hoặc các hoạt động khác trong một khu vực nhất định theo thời gian. 


Tiểu luận: Sinh viên học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí MinhTiểu luận: Sinh viên và thất nghiệp

Đô thị hóa luôn đồng hành cùng quá trình di cư từ nông thôn vào thành thị. Chính dòng di cư này đã tạo ra sự thịnh vượng cho các đô thị, song bản thân nó cũng đẻ ra vô số hệ lụy cho đô thị như là nạn thất nghiệp gia tăng, ách tắc giao thông ngày càng thêm trầm trọng, thiếu nhà ở, vệ sinh môi trường kém, thiếu trường học, thiếu dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, tệ nạn xã hội gia tăng… Báo cáo này đi vào nghiên cứu nguồn gốc của việc di cư để từ đó đề xuất các biện pháp nhằm chủ động kiểm soát dòng di cư trong quá trình đô thị hóa.

I. Một số vấn đề cơ bản về di dân từ nông thôn ra thành thị trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay
1.1. Đô thị hóa và quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng, một khu vực hoặc quốc gia. Đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không gian, hoặc mật độ dân cư, hoặc thương mại, hoặc các hoạt động khác trong một khu vực nhất định theo thời gian. Quá trình đô thị hóa có thể diễn ra thông qua sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị, hoặc sự phát triển tự nhiên của dân cư hiện có. Tuy nhiên, trong thực tế quá trình đô thị hóa tại các quốc gia đang phát triển chủ yếu là thông qua quá trình chuyển dịch dân cư vì quá trình phát triển dân cư tự nhiên thường không mạnh, do mức độ tăng trưởng dân cư tự nhiên của thành phố thấp hơn nông thôn.
Có thể nói rằng quá trình di cư từ nông thôn vào thành thị là tiền đề, đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa. Sẽ không có quá trình đô thị hóa, nếu không có sự di cư.
Ở Việt Nam trong những năm qua, cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, tốc độ đô thị hóa cũng diễn ra vô cùng nhanh chóng. Sự phát triển mạnh mẽ của các đô thị trên phạm vi cả nước đã dẫn đến sự tập trung với quy mô và tốc độ ngày càng cao của cư dân đô thị, đặc biệt là dòng di cư của lao động nông thôn vào các thành phố tìm việc làm. Chính dòng di cư lao động này đã tạo ra sự thịnh vượng cho các đô thị, song bản thân nó cũng đẻ ra vô số hệ lụy mà đô thị phải gánh chịu đó là nạn thất nghiệp, ách tắc giao thông, thiếu nhà ở, vệ sinh môi trường kém, thiếu trường học, thiếu dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe…
Việc nhận thức đúng đắn quy luật di cư để từ đó có các biện pháp hữu hiệu nhằm chủ động trong việc kiểm soát dòng di cư trong quá trình đô thị hóa luôn là bài toán hóc búa, nhưng đồng thời là mong muốn cháy bỏng của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, các nhà quản lý đô thị cũng như các chính sách xã hội hiệu quả.
Dưới góc độ lý thuyết, để lý giải cho nguồn gốc sự di dân từ khu vực nông thôn vào thành thị diễn ra trong quá trình đô thị hóa, đã có nhiều nhiều mô hình lý thuyết khác nhau, trong đó được thừa nhận rộng rãi nhất phải kể đến  các mô hình khu vực kép (Dual Sector Model) của Arthur Lewis và mô hình thu nhập kỳ vọng (Expected Income Model) của Harris – Todaro.
Mô hình khu vực kép giải thích hiện tượng lao động dư thừa từ khu vực sản xuất nông nghiệp truyền thống (đặc trưng cho nông thôn) được chuyển dịch sang các ngành sản xuất chế biến hiện đại (đặc trưng cho đô thị) trong quá trình công nghiệp hóa, với giả định rằng, trong nền kinh tế chỉ tồn tại 02 khu vực: khu vực sản xuất nông nghiệp truyền thống và khu vực sản xuất chế biến hiện đại. Ngành nông nghiệp truyền thống phổ biến là lao động thủ công, năng suất thấp nên có mức lương thấp. Ngược lại, các ngành sản xuất chế biến hiện đại thường có năng suất cận biên cao, mức lương cao hơn khu vực kinh tế nông nghiệp, và có nhu cầu tăng thêm lao động. Mô hình cũng giả định việc cải thiện năng suất cận biên của lao động trong ngành nông nghiệp ít được ưu tiên hơn tại các quốc gia đang phát triển. Điều này dẫn đến xu hướng chuyển dịch các khoản “lợi nhuận ròng” thu được từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang các ngành sản xuất công nghiệp.  
Do sản xuất nông nghiệp bị hạn chế về mặt diện tích đất sản xuất, do đó sản phẩm cận biên tăng thêm của một nông dân được giả định sẽ tiến đến zero theo quy luật “lợi nhuận biên giảm dần”. Kết quả là, trong ngành nông nghiệp tồn tại một số lượng lao động không đóng góp làm tăng sản lượng nông nghiệp kể từ khi sản phẩm cận biên của họ bằng không. Nhóm nông dân này chính là nguồn “lao động dư thừa” từ khu vực nông nghiệp. Do có sự khác biệt về tiền lương giữa ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành sản xuất chế biến hiện đại nên đội quân lao động dư thừa này sẽ được dịch chuyển tới các ngành sản xuất khác mà không làm ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra của ngành nông nghiệp.
Nếu số lượng người lao động di chuyển từ nông nghiệp sang lĩnh vực sản xuất khác bằng với số lượng “lao động dư thừa” trong lĩnh vực nông nghiệp, phúc lợi và năng suất chung sẽ được cải thiện. Tổng số sản phẩm nông nghiệp sẽ vẫn không thay đổi trong khi tổng sản phẩm công nghiệp tăng lên do việc bổ sung thêm lao động.
Theo thời gian, việc tăng thêm lao động sẽ làm cho năng suất lao động và mức tiền lương cận biên trong lĩnh vực sản xuất chế biến dần dần giảm xuống trong khi đó năng suất cận biên và tiền lương trong sản xuất nông nghiệp dần tăng lên do lao động kém hiệu quả bị rút bớt. Kết quả là năng suất lao động cận biên trong nông nghiệp tiến tới cân bằng với năng suất lao động cận biên của các ngành sản xuất khác, mức lương trong ngành nông nghiệp cân bằng với mức lương trong các ngành sản xuất khác, người lao động nông nghiệp không còn động cơ tiền bạc để chuyển dịch, quá trình di cư chấm dứt.
Mô hình khu vực kép đã tỏ ra thành công trong việc lý giải quá trình dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn vào thành thị tại các nước phát triển. Tuy nhiên, hạn chế của mô hình này không lý giải được hiện tượng dòng người nhập cư vẫn ào ạt đổ về thành phố trong khi tình trạng thất nghiệp đang diễn gay gắt tại các nước đang phát triển.
Khác với mô hình khu vực kép của Arthur Lewis lý giải nguồn gốc của việc di cư dựa vào giả định “dư thừa lao động” trong khu vực nông thôn, mô hình Harris – Todaro giải thích quyết định của người lao động di cư từ khu vực nông thôn ra thành thị dựa trên sự khác biệt về thu nhập kỳ vọng giữa nông thôn và đô thị. Điều này ngụ ý rằng, sự di cư từ nông thôn ra đô thị trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị cao, có thể được lý giải về mặt kinh tế, nếu thu nhập kỳ vọng từ khu vực đô thị cao hơn.
Mô hình này giả định rằng, tỷ lệ thất nghiệp là không tồn tại trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra, nó còn giả định rằng thị trường sản xuất và thị trường lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn cạnh tranh hoàn hảo. Kết quả là, tiền lương của các công nhân nông nghiệp ở nông thôn bằng với năng suất cận biên trong nông nghiệp. Mô hình cũng cho rằng, trạng thái cân bằng sẽ được thiết lập khi mức lương kỳ vọng tại khu vực đô thị bằng với sản phẩm cận biên của một công nhân nông nghiệp. Tại trạng thái cân bằng, tỷ lệ lao động các vùng nông thôn di chuyển đến đô thị sẽ bằng không khi thu nhập kỳ vọng ở nông thôn bằng với thu nhập kỳ vọng ở đô thị. Nói cách khác, mức lương kỳ vọng trong nông nghiệp bằng với mức lương kỳ vọng ở đô thị nhân với số lượng việc làm có sẵn trong đô thị chia cho tổng số người đang có việc làm và cần tìm việc làm ở đô thị.
Mô hình Harris – Todaro cho phép giải thích được lý do tồn tại tình trạng thất nghiệp ở các đô thị tại các nước đang phát triển, và tại sao người dân lại chuyển tới các thành phố mặc dù đang tồn tại nan giải vấn đề thất nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, mô hình Harris – Todaro thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế phi chính thức (Informal Sector). Đó là khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động, không hoàn toàn là bất hợp pháp, nhưng thường cũng không được sự thừa nhận chính thức của xã hội và hầu hết các hoạt động này đều không đăng ký với nhà nước. Chẳng hạn như lao động phục vụ gia đình, hành nghề tự do, xe ôm, bán hàng rong, mài dao kéo, dịch vụ ăn uống vỉa hè, thu lượm ve chai đồng nát, đánh giày, sơn đông mãi võ, mại dâm v.v...
Việc di cư ồ ạt của lao động nông thôn vượt quá khả năng tạo việc làm ở khu vực đô thị, kết quả là nhiều người lao động không tìm được việc làm  trong khu vực kinh tế chính thức, phải chấp nhận bổ sung vào khu vực kinh tế phi chính thức.
Sự hiện diện của khu vực kinh tế phi chính thức đã giúp giải thích cho việc tại sao tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị cao nhưng vẫn có hàng dòng người từ nông thôn đổ vào thành thị tìm việc làm. Bởi vì họ sẵn sàng bổ sung vào   khu vực kinh tế phi chính thức, nơi đồng tiền kiếm được vẫn cao hơn ở lại nông thôn. Ngay cả khi sự di chuyển này tạo ra thất nghiệp tại các đô thị và dẫn đến sự phát triển không mong đợi ở khu vực kinh tế phi chính thức, thì hành vi này vẫn được xem là hợp lý xét về khía cạnh kinh tế vì nó tối đa hóa lợi ích trong các điều kiện mà mô hình Harris – Todaro giả định.
Vì vậy, xét trên tổng thể để kiểm soát di cư từ nông thôn vào thành thị trong quá trình đô thị hóa cần giải quyết đồng bộ tất cả các vấn đề trên cả 03 khu vực kinh tế bao gồm: khu vực kinh tế đô thị chính thức; khu vực kinh tế đô thị phi chính thức và khu vực nông thôn.
1.2. Thực trạng và nguyên nhân di dân từ nông thôn ra thành thị trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Về thực trạng
Di cư từ nông thôn ra thành thị ở nước ta ngày càng có xu hướng gia tăng và có tính phổ biến rộng khắp trên các vùng nông thôn trong cả nước: Theo kết quả của các cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999 và năm 2009, thì qui mô di cư trong nước năm 1999 là 4,5 triệu người (chiếm khoảng 6,5% dân sổ), sau 10 năm con số này đã đến 6,5 triệu người (chiếm khoảng 7,57% dân số), rõ ràng người di cư đã tăng mạnh hơn nhiều so với tăng dân số. Việc di cư lao động nông thôn tập trung nhiều đến các thành phố lớn như: TP. HCM chiếm 31% dân số của địa phương, thậm chí có tới 50% dân sổ là người di cư trong 7/24 quận/huyện cùa thành phố; ở Hà Nội dân số di cư chiếm tới 10% dân số; và Đà Nẵng con số này là khoảng 6,4%.
Di cư lao động từ nông thôn ra thành thị ở nước ta ngày càng có xu hướng trẻ hóa. Theo kết quả điều tra gần đây cho thấy lao động di cư từ nông thôn ra thành thị phần lớn thuộc nhóm dân cư trẻ tuổi (18-30 tuổi) và chưa kết hôn. Tuy phần lớn sổ người di cư là nam giới nhưng nữ gii lại có xu hướng di cư trẻ hơn nam giới, tỷ lệ nữ di cư ở độ tuổi dưới 25 tuổi chiếm 55,4% còn nam chiếm 42,4%. Mục đích di cư chù yếu là đề tìm kiếm việc làm, lao động kiểm sống và cài thiện tim nhập. Nhưng nhìn chung, phụ nữ thường có nhiều trách nhiệm về kinh tế gia đình hơn nam. Tuy vậy, phn lớn vẫn là những đối tượng thuộc nhóm yếu thế: Nhiều kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy lao động nông thôn di cư ra thành phố làm rất nhiều nghề hoặc việc làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao dộng phổ thông và giản đơn (làm thuê trong các công trường xây dựng, các cơ sở sản xuất, tái chế nhựa, may mặc, da giày, bảo vệ,...), bán hàng rong, giúp việc gia đình... Phần lớn làm việc trong các cơ sở kinh tế thuộc khu vực phi chính thức như các cơ s kinh tế tư nhân, kinh tế gia đinh hoặc tự làm việc... Nên tỷ l đưc ký hợp đồng lao động thấp, hoặc có hợp đổng lao động thi ch sử dụng lao động cũng ít quan tâm đến việc thực hiện bảo hiểm xã hội và các phúc lợi xã hội khác đối vi người lao động trong các cơ s kinh tế thuộc khu vực phi chính thức.
Mặt khác, lực lượng lao động di cư ra thành thị có thể bị mất việc làm bất cứ lúc nào, là hiện tượng khá phổ biển, theo sổ liệu diều tra của Viện Chính sách và Chiến lược NN&PTNT tại 4 tnh Nam Định, Lạng Sơn, Bình Thuận, An Giang trong năm 2009 cho thấy, có 21.7% lao động di cư dã bị mất việc làm phủi trở về quê. Do khủng hoảng kinh tể toàn cầu đã tác dộng tiêu cực tới việc làm của lao động nông thôn. Theo Ông Đặng Đình Long, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tư vấn phát triển, kết quả từ dự án "Tình hình di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO" công bố ngày 26/8/2013 tại Hà Nội cho biết: Nguyên nhân khiến người lao động di cư là do việc làm ở địa phương thu nhập thấp (chiếm trên 45%) và không có việc làm (chiếm trên 38%). Đặc biệt, trên 66% lao động di cư không có chuyên môn kỹ thuật. Tuy nhiên, có tới gần 60% đối tượng di cư đầu tiên có việc làm ngay, nhưng chủ yếu là lao động giản đơn, cho nên hơn 44% lao động di cư cho rằng không cần học thêm kỹ năng, nghiệp vụ nào để làm quen với công việc hiện tại.
Dòng lao động di cư từ nông thôn ra đô thị tìm việc làm với nhiều hình thức và quy mô khác nhau, Có thể đi một mình hoặc có thể đi cùng bạn bè, họ hàng, người thân trong gia đình, hoặc qua các kênh tuyển dụng ca các công ty, doanh nghiệp, hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm... nhưng ch yếu là đi cùng bạn bè trang lứa cùng làng, xã... Qua điều tra có 24,2% người di cư ra đô thị làm việc cùng người nhà; 14,8% cùng những người thân trong dòng họ; 41,2% người di cư đi cùng những người bạn bè cùng làng, xã, theo các kênh có tổ chức thông qua các trung tâm 7.0% và các hình thức khác 14,%... Điều này phản ánh tính kết cấu cộng đồng ca những người di dân rất cao thông qua hình thức di chuyển theo nhóm (cùng bạn bè, làng, xã) là cơ sở tạo cho người di dân có được tâm lý an toàn khi di chuyển.
1.2.2. Về nguyên nhân
Di cư từ nông thôn ra thành thị thời gian qua ngày càng gia tăng và có tính rộng khắp trên các vùng nông thôn trong cả nước, có những thời điểm diễn ra trên bình diễn rộng với qui mô lớn. Tình hình trên tuy có nhiều nguyên nhân song có thể khái quát các nhóm nguyên nhân chính dưới tác động của các yếu tố “đẩy” và “hút” lao đông từ nông thôn di cư ra thành thị là:
Thứ nhất, do sự gia tăng dân số và sức ép về lao dộng việc làm ở khu vực nông thôn ngày càng gia tăng.
Tỷ lệ tăng dân số nước ta hiện nay mức 1,5%/năm. Trong kh
u vực nông thôn tăng trên 1,8%/năm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và thu hút của các ngành thêm và kèm theo dó là đất đai nông nghiệp bị thu hẹp cho phát triền công nghiệp và đô thị.
2.3.    Tình trạng (lo phát triển không đều, sự chênh lệch về tliu nhập, mứcsốHỊ! giữa nông tliôn thành thị và ngày càrtỊỊ có xu hướng doânh ra là một trong nhũ/iỊỉ nguyên nhăn có sức hút (li cư từ nông thôn ra thành thị. Cuộc sống cùa đa sổ người nông dân, đặc biệt các hộ thuần nông vả các vùng sản xuất gặp khó khăn.... thu nhập thấp và cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Tình trạng nghèo, đói, cơ sơ phúc lợi yếu kém, đời sống văn hóa tinh thần thiếu so với thành thị. Sàn xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khản, chi phi sản xuất cao và nhiều rủi ro... Chênh lệch thu nhập và mức sống đă tạo nên lực đầy chủ yếu dòng người di cư vào thành thjế Theo Harris - Todaro vấn đề di cư nông thôn ra thành thị xét về cường dộ và qui mô. theo hàm số về mức độ di cư (Mị).
chấp nhận rui ro và thách thức, bời không có lựa chọn nào khác. Mỗi khi chênh lệch thu nhập và cuộc sổng giữa thành thị và nông thôn còn có khoảng
cách.
2.4. Nịịoìũ mức thu nhập cỏ tính hấp dẫn nêu trên còn có các điều kiện và lý do khác như: học hành vả nâng cao trình độ nghề nghiệp, và tiếp cận với văn minh và môi trường sống đô thị về y tế, cơ sở hạ tầng vui chơi giải trí... tạo nên tâm lý thích ra thành thị, nhất là đối với thanh niên muốn học hành và thay đồi môi trường sống... Theo điều tra ở một số tinh cho thấy các nguyên nhân/lý do di cư nông thôn ra thành phổ dưới nhiều hình thức, lý do khác nhau và quyết định di cư có sự tác động cùa nhiều động lực khác nhau. Nhưng về kinh tế vẫn là động lực chính đối với người dân nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm chiếm trên 85%. Diều đó cho thấy tim việc làm tìm kiếm thu nhập như là một giải pháp về “sinh kế". Với mục đích lớn nhất là tim việc làm đề nâng cao thu nhập, nhằm cải thiện cuộc sống cho gia đình.

1. Một số khuyến nghị dưới góc độ chính sách
Chúng ta đã thấy được từ mô hình Harris – Todaro là vấn đề di dân tới các thành phố có thể mang lại lợi ích cá nhân cho bản thân người nhập cư, và dựa trên phân tích hợp lý lợi ích/chi phí. Tuy nhiên, đứng về mặt xã hội, tình trạng đó có thể gây ra nhiều vấn đề không mong muốn mà xã hội phải trả giá đắt cho việc đó. Mô hình này cũng ngụ ý rằng, muốn kiểm soát dòng di cư từ khu vực nông thôn vào đô thị, cần giải quyết đồng bộ 02 vấn đề lớn đó là cải thiện thu nhập cho khu vực nông thôn và giảm cơ hội có việc làm ở đô thị, tức là tìm cách đưa các hoạt động kinh tế có khả năng tạo ra nhiều việc làm, thu nhập từ khu vực đô thị về nông thôn và kiểm soát chặt chẽ khu vực phi chính thức. Cụ thể, để kiểm soát di cư, chính phủ các nước đang phát triển cần tiến hành các giải pháp sau đây:
1.1. Phải giảm bớt sự thiên lệch đối với chính sách phát triển đô thị và nông thôn. Giảm thiểu bất cân bằng về các cơ hội kinh tế giữa nông thôn và thành thị.
Việc thực thi chính sách phát triển thiên lệch của chính phủ tại các nước đang phát triển đã kéo theo quá trình “đô thị hóa cưỡng bức” bởi các quyết định hành chính dẫn đến hình thành nhiều đô thị mới, nâng cấp, mở rộng thêm hàng loạt đô thị hiện có. Chính điều này đã làm cho tình trạng mất cân đối về đầu tư giữa khu vực đô thị và nông thôn ngày càng thêm gay gắt. Trong điều kiện nguồn lực quốc gia bị hạn chế, việc cùng lúc xuất hiện nhiều đô thị đã dẫn đến dòng vốn đầu tư đổ vào khu vực đô thị tăng nhanh, kích thích mạnh mẽ dòng dịch chuyển dân cư từ nông thôn vào thành thị vì có nhiều cơ hội kiếm được việc làm với thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, do việc hình thành và phát triển đô thị quá nhanh, trong phút chốc hàng triệu nông dân bỗng trở thành cư dân đô thị, trong khi các tiền đề cơ bản để đảm bảo cho cuộc sống, cho hoạt động kinh tế và tâm lý của người dân chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng đã làm cho công tác quản lý đô thị gặp rất nhiều khó khăn.
Mặt khác, do việc nguồn vốn của toàn xã hội bị hút vào khu vực đô thị, dẫn đến nông thôn không được đầu tư thỏa đáng nên không tạo thêm được nhiều việc làm, năng suất lao động cận biên trong nông nghiệp thấp nên tiền lương trong khu vực này thấp, không giữ chân được người lao động tại nông thôn. Dòng người đông đúc từ nông thôn đổ dồn vào thành phố, một mặt do ở nông thôn thiếu việc làm hấp dẫn, mặt khác do tỷ lệ sinh đẻ ở khu vực này thường cao đã làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp tại các đô thị, làm gia tăng nhanh chóng số lao động trong khu vực phi chính thức.
Vì vậy, muốn kiểm soát dòng di cư từ nông thôn vào thành thị, chính phủ các nước cần cân nhắc chính sách đầu tư, tránh thiên lệch cho khu vực đô thị, dẫn đến “bỏ rơi” nông thôn như hiện nay.
1.2. Các nhà hoạch định chính sách phải nhận thức được rằng việc tạo ra công ăn việc làm ở thành thị nhiều hơn có thể không phải là giải pháp để giải quyết vấn đề thất nghiệp ở đô thị
Trong chính sách giải quyết việc làm hiện nay, các cấp chính quyền thành phố thường nghĩ rằng việc tạo ra nhiều công ăn việc làm trong thành phố sẽ giúp giải quyết áp lực thất nghiệp cho khu vực đô thị. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy, trong điều kiện thị trường lao động tự do, khi cơ hội việc làm ở đô thị tăng lên sẽ kéo theo sự kỳ vọng về có việc làm tăng lên trong khi thu nhập từ khu vực nông thôn không được cải thiện. Theo lý thuyết của Harris – Todaro, điều này tất yếu sẽ kéo theo dòng dịch chuyển lao động nhập cư từ khu vực nông thôn vào thành phố, làm cho tình trạng thất nghiệp càng trở nên trầm trọng tại các đô thị ở các nước đang phát triển.
Vì vậy, muốn giải quyết thất nghiệp ở đô thị, các nhà quản lý vĩ mô cần hướng vào phát triển các ngành nghề đòi hỏi chất lượng lao động cao, hàm lượng tri thức cao nhưng không đòi hỏi sử dụng nhiều lao động tại đô thị. Chính sách này một mặt vẫn đảm bảo cho sự thịnh vượng của các đô thị, mặt khác không dẫn đến tình trạng thu hút quá đông lao động từ nông thôn vào thành thị, vì không có nhiều cơ hội có việc làm tại đô thị cho bộ phận lao động có chuyên môn thấp, vốn rất đông đúc ở khu vực nông thôn.
Việc làm giảm các cơ hội việc làm đối với lao động có chuyên môn thấp ở khu vực đô thị cũng góp phần đảm bảo cho mật độ dân cư tại các đô thị không quá cao, làm giảm cơ hội tham gia vào khu vực kinh tế phi chính thức.
Cùng với giải pháp đó, các thành phố cần tăng cường trách nhiệm trong việc hợp tác với các địa phương khác trong khu vực để đẩy mạnh phát triển kinh tế tại khu vực nông thôn nhằm giữ chân lao động tại chỗ. Cần quy hoạch phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động ra xa các đô thị lớn; kéo dãn các hoạt động thương mại, dịch vụ vốn rất thịnh hành tại thành phố ra các khu vực ngoại ô nhằm tăng cơ hội tiếp cận việc làm phù hợp cho lao động nông thôn.
1.3. Câu trúc lại nền giáo dục quốc gia hướng cân đối giữa đào tạo lao động trình độ cao với đào tạo nghề
Với cấu trúc thị trường lao động tại các quốc gia đang phát triển thường bao gồm khu vực thành thị chính thức, khu vực thành thị phi chính thức (còn gọi là khu vực phi chính thức), và khu vực nông thôn (theo Gillis và các cộng sự 1996). Xu thế của một xã hội phát triển là giảm tương đối về mặt tỷ trọng của lao động trong khu vực nông nghiệp và thành thị phi chính thức, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực thành thị chính thức. Vì vậy, luôn có nhiều người mong muốn được làm việc trong khu vực lao động “thành thị chính thức”.
Tại các nước đang phát triển, nhằm mục đích đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, nên ngân sách nhà nước thường chi một phần rất lớn cho giáo dục. Điều này đã tạo ra cơ hội cho nhiều người lao động được hưởng dịch vụ đào tạo giá rẻ dẫn đến bùng nổ nhu cầu học tập, đặc biệt là học đại học để mong có được 01 chỗ làm việc trong khu vực “thành thị chính thức”. Kết quả là nguồn cung lao động trình độ đại học trong khu vực “thành thị chính thức” luôn có xu hướng vượt nhu cầu. Trong điều kiện đó, người tốt nghiệp đại học dần dà phải đảm đương các công việc của những người tốt nghiệp trung học, thậm chí là các công việc của những người lao động phổ thông… gây áp lực thất nghiệp cho các đô thị.
Để khắc phục tình trạng này, hệ thống đào tạo quốc dân cần phải có sự điều chỉnh theo hướng xác định rõ mục tiêu đào tạo nghề nghiệp có 02 loại: đào tạo chuyên gia và đào tạo người lao động. Đối với mục tiêu thứ nhất, cần phải tập trung phát triển theo hướng “đào tạo tinh hoa”, đào tạo có chọn lọc nhưng yêu cầu rất cao. Còn lại là “đào tạo đại chúng” với mục đích cung ứng lao động thông thường cho xã hội. Đối với đào tạo này cần cân nhắc tỷ lệ giữa đào tạo đại học và đào tạo nghề theo nguyên tắc: trả công việc về đúng trình độ của người lao động.
1.4. Sử dụng linh hoạt công cụ trợ cấp đối với khu vực nông thôn để cải thiện thu nhập thực tế cho người lao động, giảm áp lực di cư
Động lực thúc đẩy lao động nông thôn tràn vào thành thị tìm việc làm xuất phát từ sự kỳ vọng về có việc làm ở đô thị và mức lương được nhận. Vì vậy, để hạn chế dòng dịch chuyển này trong điều kiện vẫn đảm bảo cho phúc lợi xã hội cân bằng ở mức cao, ngoài việc tạo ra các cơ hội việc làm tốt hơn ở khu vực nông thôn, hạn chế phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động trình độ thấp ở đô thị như đã được giới thiệu trong các định hướng trên. Một hướng khác cũng cần được quan tâm, đó là làm tăng thu nhập kỳ vọng ở nông thôn để hạn chế dòng người di cư từ nông thôn lên thành thị. Trong điều kiện kinh tế thị trường, mức lương ở khu vực nông thôn (Wr) phụ thuộc vào năng suất lao động biên trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, thường thấp hơn ở khu vực đô thị. Vì vậy, để không khuyến khích lao động nông thôn vào thành thị cần sử dụng 01 khoản trợ cấp của chính phủ (S) bổ sung cho mức tiền lương (Wr).
Việc tăng cường các khoản trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đồng thời cắt giảm các trợ cấp ở khu vực đô thị sẽ có tác dụng đẩy điểm cân bằng về lợi ích lên cao hơn, ứng với một mức lương như cũ (Wr), tức là làm giảm áp lực dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn vào thành thị trong điều kiện những yếu tố khác không đổi. Nguồn trợ cấp này có thể được huy động đóng góp từ khu vực đô thị thông qua việc thu các loại phí như: phí ô tô, phí nước thải, phí môi trường… và các khoản đóng góp khác từ ngân sách quốc gia được trích từ các chương trình chống ách tắc giao thông, chống tệ nạn xã hội, giải quyết thất nghiệp, nhà ở cho người     nghèo vv… Việc sử dụng các khoản trợ cấp này cho khu vực nông nghiệp, nông thôn là hoàn toàn hợp lệ vì nó nằm trong “Hộp xanh” (Blue Box), vốn được WTO cho phép.
1.5. Các chương trình phát triển vùng nông thôn nên được khuyến khích. Các chính sách tập trung vào cả nguồn thu từ khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp đều phải được chú trọng
Tăng cường các chính sách khuyến khích đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ các khu vực kinh tế khác, hạn chế dòng chảy “lợi nhuận ròng” từ khu vực nông thôn đổ dồn về thành phố.
Khi nghiên cứu về tác động của các trang trại nhỏ đối với quá trình đô thị hoá ở Thung lũng San Jaoquin, California, Hoa Kỳ năm 1940, Walter Goldschmidt đã nhận thấy “Tình trạng các khoản thu nhập kiếm được từ hoạt động nông nghiệp đã bị rút ra khỏi khu vực nông thôn để đầu tư vào các xí nghiệp công nghiệp tại các thành phố, chính điều này đã “giết chết” khu vực nông thôn”[1].
Điều này cũng đang diễn ra tại Việt Nam, việc các trang trại nuôi tôm, trồng cà phê, tiêu, cao su ở các vùng nông nghiệp tập trung ở nước ta đã thu được những khoản lợi nhuận rất lớn trong các giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, khoản lợi nhuận rất lớn này hầu như không được giữ lại trong khu vực sản xuất nông nghiệp để tái sản xuất, hầu hết chúng đã được rút ra để đầu tư vào bất động sản ở các đô thị lớn hoặc chuyển hướng đầu tư sang công nghiệp, dịch vụ. Vì vậy, chương trình phát triển vùng nông thôn cần phải được khuyến khích để thu hút các nguồn vốn đầu tư của xã hội kể cả nguồn vốn tích lũy trong bản thân khu vực nông nghiệp nông thôn đầu tư cho nông thôn sẽ là chính sách quan trọng, lâu dài để giải quyết vấn đề di dân, thất nghiệp và xã hội tại các đô thị tại các nước đang phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]     Goldschmidt, Walter (1978), “The Communities of the San Joaquin Valley: The Relationship between Scale of Farming, Water Use, and the Quality of Life”, Testimony before the House Subcommittee on Family Farms, Rural Development, and Social Studies, Sacramento, CA, October 28, 1977.
[2]     Amano, M. (1983): “On the Harris-Todaro Model with Intersectoral Migration of Labour”, Economica: 311-323.
[3]     Bhattacharya, B. (1993): “Rural-Urban Migration in Economic Development,” Journal of Economic Surveys, 7 (3): 243-281.
[4]     Todaro, M. P. (1976): “Internal Migration in Developing Countries: A Review of Theory, Evidence, Methodology and Research Priorities,” International Labour Office, Geneva.
[5]     Todaro, M. P. and J. Harris (1970): “Migration Unemployement and Developement: A Two Sectors Analysis,” American. Economic. Review, 60 (1):126-42.

[6]     Todaro, M. P. and J. Harris (1976): “Urban Job Expansion, Induced Migration and Rising Unemployment: a Formulation and Simplified Empirical Test for LDCs,” Journal of Development Economics, 3 (3): 211-22.

0 nhận xét: