Khi nói đến sự hiện đại hóa kỹ thuật quân sự của Trung Quốc, cần lưu ý đặc điểm
chủ yếu của Trung Quốc - đó là tiềm lực khổng lồ. Xét về sức mua, Trung Quốc là
nền kinh tế lớn nhất thế giới, lại sở hữu quân đội đông đảo nhất thế giới. Có
nghĩa là ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc về đa số các loại vũ khí
sẽ luôn có ưu thế lớn về số lượng không chỉ đối với các nước láng giềng, mà cả
đối với các lực lượng Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.
Trung Quốc đang trở thành địch thủ chủ yếu của Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang. |
➽Hãy về quỳ dưới đất Mẹ, xin lỗi nhân dân, tu tâm dưỡng tính, Tổ quốc sẽ khoan hồng!➽Đáng thương cho Nguyên Thạch: Phận chó cắn càn!➽“Hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”➽Phải chăng “chính trị gia dân chủ cộng sản “muốn tốt cũng không dễ””?
Tuy nhiên, quan niệm cho rằng, Trung Quốc có khả năng sản xuất loạt các sản phẩm kỹ thuật tinh vi với giá rẻ mạt và ở số lượng khổng lồ dĩ nhiên chỉ là sự phóng đại.
Hiện nay, nhất là sau sự mất giá của đồng rúp xảy ra vào năm
2014, các mẫu vũ khí trang bị của Nga tương đương hay tốt hơn, có cùng chức
năng trở nên rẻ hơn đáng kể các loại của Trung Quốc.
Điều đó đã được thể hiện cụ thể trong cuộc đấu thầu mua xe
tăng ở Thái Lan vào năm 2016, nơi xe tăng VT-4 của Trung Quốc lại đắt hơn Т-90
của Nga. Điều thú vị là vấn đề giá cả cũng đã không cản trở được Trung Quốc
thắng thầu.
Trung Quốc hiện vẫn tụt hậu về nhiều hướng phát triển vũ khí
trang bị so với cả Mỹ và Nga. Nhưng nếu như trong thập niên 1990 và vào đầu những
năm 2000, người ta thường nói đến sự tụt hậu 20-30 năm, thì nay là nói đến sự lạc
hậu chỉ 10 năm. Ngay hiện thời, một số loại vũ khí trang bị do Trung Quốc sản
xuất gần như đang ở cùng một trình độ với các mẫu đang được Mỹ, Tây Âu và Nga sản
xuất.
Ví dụ, Trung Quốc đang sản xuất tiêm kích thế hệ 4 J-10B
trang bị các hệ thống radar phát hiện hiện đại nhất - đó là các radar với anten
mạng pha chủ động; các tên lửa không đối không lắp đầu tự dẫn radar chủ động,
tương đương với các tên lửa trong trang bị AMRAAM của Mỹ và R-77 của Nga; các hệ
thống tên lửa phgongf không rất hiện đại; các tên lửa đường đạn và hành trình tầm
trung chính xác cao.
Các hệ thống pháo Trung Quốc như lựu pháo 155 mm PLZ-05 và
các hệ thống rocket phóng loạt hạng nặng như А100 đang giành thắng lợi trong
các cuộc đấu thầu trước cả các đối thủ Nga, lẫn phương Tây do hiện tại chúng
đang ở trình độ tiên tiến, được bảo đảm bởi các loại đạn chính xác cao.
Một số thành tựu của Trung Quốc khá độc đáo. Trung Quốc là nước
đầu tiên trang bị tên lửa đường đạn tầm trung chống hạm (DF-21D, DF-26D) mà nếu
độ tin cậy và tính năng của chúng sẽ được xác nhận thì chúng có thể làm thay đổi
diện mạo chiến tranh trên biển. Trung Quốc cùng với Mỹ và Nga đang tích cực thực
hiện chương trình chế tạo các hệ thống phòng thủ tên lửa trên chiến trường và
phòng thủ tên lửa chiến lược có khả năng đánh chặn tên lửa ở giai đoạn bay giữa.
Trung Quốc đang giữ vị trí dẫn đầu trong phát triển vũ khí chống vệ tinh. Theo
các chuyên gia Mỹ, Trung Quốc có thể là nước đầu tiên sẽ đưa vào trực chiến các
hệ thống vũ khí chống vệ tinh, có khả năng bắn hạ không chỉ các vệ tinh trinh
sát trên quỹ đạo thấp, mà cả các vệ tinh định vị toàn cầu ở các quỹ đạo địa
tĩnh cao hơn (đến 40.000 km).
Khó khăn của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn là chưa đủ
khả năng tự lực thực hiện những sản phẩm mới đột phá. Đa số các thành tựu của họ
gắn với mô hình đặc thù của Trung Quốc là cải tạo sâu các công nghệ du nhập từ
bên ngoài. Mô hình này trong đa số các trường hợp đã đi khá xa khỏi kiểu sao
chép đơn thuần và trù định sử dụng các công nghệ nước ngoài ở giai đoạn 1, tìm
hiểu chúng sâu sắc, tổng hợp lại và chế tạo ra vũ khí trang bị của mình trên cơ
sở đó. Nhiều trong những kết quả mới đây của Trung Quốc trong lĩnh vực vũ khí
trang bị chính là đạt được bằng cách đó.
Ví dụ, gần đây, Trung Quốc cuối cùng đã bắt đầu trang bị động
cơ tự phát triển và sản xuất WS-10 Taihang cho không chỉ tiêm kích hai động cơ
mà cả tiêm kích một động cơ.
Taihang bắt đầu được thiết kế từ cuối thập kỷ 1980 không phải
là sự sao chép một mẫu động cơ nước ngoài nào mà là kết quả của sự phân tích và
nghiên cứu sâu sắc cấu tạo của một số loại động cơ máy bay của Liên Xô, châu Âu
và Mỹ thời những năm 1980-1990. Nhìn chung, sản phẩm của Trung Quốc vẫn thua
kém các mẫu động cơ hiện đại tương tự do Nga sản xuất về tuổi thọ và độ tin cậy.
Trong các nỗ lực xuất khẩu máy bay, Trung Quốc gần như luôn buộc phải trang bị
cho máy bay của họ các động cơ nhập khẩu, kể cả đối với máy bay lẫn trực thăng.
Ngoài ra, Taihang đáp ứng các yêu cầu của máy bay thế hệ 4, trong khi đó Trung
Quốc đang sắp sửa đưa vào biên chế các tiêm kích thế hệ 5 J-20 đầu tiên nên Bắc
Kinh vẫn muốn hợp tác với Moskva trong lĩnh vực chế tạo động cơ. Tuy nhiên, họ
đã thực hiện được bước đi không kém phần quan trọng: Trung Quốc đã có khả năng
bảo đảm động cơ cho các máy bay chiến đấu chủ lực của không quân mà không cần sự
hỗ trợ của nước ngoài, điều có ý nghĩa quan trọng từ giác độ an ninh quốc gia.
Hệ thống tên lửa phòng không tầm xa chủ lực của Trung Quốc
HQ-9 là sản phẩm lai ghép: một số thành phần thiết bị mặt đất do Nga phát triển
theo đơn đặt hàng của Trung Quốc, còn bản thân tên lửa được chế tạo trên cơ sở
sử dụng các tài liệu nhận được từ Israel (theo một số phỏng đoán thì có cả
nguyên mẫu) tên lửa phòng không có điều khiển MIM-104C của Mỹ và các kết quả
nghiên cứu của Trung Quốc.
HQ-9 hiển nhiên là thua kém các hệ thống tối tân nhất của
Nga, do đó, Trung Trung Quốc đã buộc phải mua sắm các hệ thống S-300PMU2 và
S-400 của Nga song song vối việc sản xuất các hệ thống của mình. Tuy nhiên, hệ
thống tên lửa phòng không HQ-9 cũng khá tốt nên đã thắng thầu trong cuộc đấu thầu
mua các hệ thống phòng không ở Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2013, nơi mà HQ-9 đã phải đối
đầu với các hệ thống của Mỹ, châu Âu và Nga (kết quả đấu thầu đã bị hủy bỏ dưới
áp lực chính trị của Mỹ). Có vai trò quyết định trong thắng lợi này là việc
Trung Quốc sẵn sàng đưa ra các điều kiện tài chính hấp dẫn và chuyển giao công
nghệ.
Họ cũng đang nghiên cứu chế tạo các hệ thống tên lửa phòng
không nmowis với các tính năng chiến đấu cao hơn nhiều so với HQ-9 và các tính
năng đánh chặn mục tiêu đường đạn mạnh hơn.
Chiến lược sao chép sáng tạo, kết hợp và ứng dụng thích ứng
các thành tựu của nước ngoài cho các nhu cầu của mình cho phép Trung Quốc rút
ngắn khoảng cách với các nước dẫn đầu đến mức nhỏ nhất, mặc dù không cho phép bứt
phá lên trước. Giới lãnh đạo công nghiệp quốc phòng Trung Quốc nhận thức được
những hạn chế tồn tại và đang nỗ lực khắc phục chúng. Trong một số trường hợp,
họ đã làm được, chẳng hạn như trong lĩnh vực tên lửa đường đạn.
Việc phát triển các lực lượng hạt nhân chiến lược, xây dựng hệ
thống cảnh báo tấn công tên lửa và phát triển các hệ thống phòng thủ tên lửa là
những ưu tiên quan trọng nhất đối với Trung Quốc trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự
và đang hút lấy những nguồn lực khổng lồ. Vào đầu những năm 2000, Bắc Kinh rõ
ràng vẫn ở vị trí cuối cùng trong số 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an
LHQ về số lượng đầu đạn hạt nhân triển khai.
Hiện nay, họ là cường quốc hạt nhân chính thức duy nhất đều đặn
liên tục gia tăng số lượng đầu đạn hạt nhân sẵn sàng cho sử dụng mặc dù vẫn
thua kém xa Nga và Mỹ (theo đa số các đánh giá thì số lượng đầu đạn hạt
nhân triển khai của Trung Quốc không quá 250). Xét về chủng loại phương tiện
mang phóng vũ khí hạt nhân, Trung Quốc từ lâu đã rời khỏi nhóm cùng với
Pháp.
Trung Quốc đang phát triển 3 họ tên lửa đường đạn xuyên lục địa
(ICBM) cơ bản. Đó là các tên lửa nhiên liệu lỏng DF-5 hiện có trong trang bị mà
biến thể mới nhất của nó được trang bị phần chiến đấu mang nhiều đầu đạn dẫn độc
lập (MIRV), và tên lửa nhiên liệu rắn cơ động DF-31, với biến thể mang nhiều đầu
đạn DF-31B đang được thử nghiệm. Đang trong quá trình đưa vào trang bị là ICBM
nhiên liệu rắn nặng hơn DF-41 mà Trung Quốc sẽ phát triển theo các biến thể bố
trí trong giếng phóng, cơ động mặt đất và triển khai trên đường sắt. Trung Quốc
cũng đang sản xuất hàng loạt tên lửa tầm trung (từ 1.000-4.000 km) với các biến
thể hạt nhân và phi hạt nhân chính xác cao.
Theo đánh giá của Mỹ, từ năm 2015, thành phần trên biển của
các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc với 4 tàu ngầm lớp Type 094 trang
bị ICBM JL-2 có thể đã bước vào trực chiến. Trung Quốc cũng đang phát triển các
biến thể cải tiến của các tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn (SSBN) và
chúng sẽ được lắp các tên lửa có tầm xa hơn. Giống như Nga, Trung Quốc cũng
đang thử nghiệm bay các đầu đạn cơ động siêu vượt âm dành cho tên lửa đường đạn.
Các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc chỉ thiếu thành
phần trên không thực sự, nhưng Trung Quốc đã chính thức xác nhận việc phát triển
máy bay ném bom chiến lược. Họ đang xây dựng các cơ sở của hệ thống cảnh báo tấn
công tên lửa mặt đất, chuẩn bị xây dựng thê đội vũ trụ của hệ thống cảnh báo.
Khác với Moskva và Washington, Bắc Kinh không bị ràng buộc bởi
bất kỳ hiệp ước và hạn chế nào trong việc phát triển và sản xuất các hệ thống
vũ khí hạt nhân và từ chối đối thoại về vấn đề này với cớ họ đến nay vẫn tụt hậu
xa so với cả hai siêu cường.
Tuy nhiên, ở cấp độ kỹ thuật, Trung Quốc đã tạo lập được các
tiền đề cho cú đột phá trong tăng cường vũ khí hạt nhân mà kết quả của nó trong
thập kỷ tới có thể là việc tiến gần Nga và Mỹ về số lượng đầu đạn triển khai
trên các phương tiện mang phóng chiến lược. Kiềm chế hạt nhân vẫn là nền tảng
vô hình của hệ thống quan hệ quốc tế hiện hữu trong lĩnh vực an ninh, nên sự xuất
hiện tiềm tàng của siêu cường thứ ba sẽ có những hậu quả nghiêm trọng nhất đối
với nền chính trị thế giới. Chẳng hạnh, Mỹ sẽ buộc phải suy tính lại hệ thống
các liên minh và cam kết của mình ở châu Á-Thái Bình Dương trong bối cảnh nguy
cơ tổn thất không thể chấp nhận tăng mạnh một khi nổ ra xung đột không chỉ với
Nga, mà cả với Trung Quốc. Những hậu quả của các thay đổi đó sẽ có tính toàn cầu
và sẽ phản ánh trong cả nền chính trị thế giới, lẫn trong nền kinh tế thế giới.
Một đặc điểm của Lực lượng tên lửa Trung Quốc (được thành lập
với tư cách quân chủng độc lập trong đợt cải cách năm 2015 trên cơ sở Lực lượng
pháo binh 2) là việc lực lượng này, ngoài các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân,
còn có một số lượng lớn (đến 1.700) tên lửa thông thường, chính xác cao tầm
trung và tầm ngắn, cũng như hàng trăm tên lửa hành trình triển khai trên mặt đất.
Điều đó cho phép Trung Quốc phần nhiều bù đắp được sự tụt hậu của mình về sức mạnh
không quân so với Mỹ và tạo cơ hội tiêu diệt hạ tầng quân sự của kẻ thù tiềm
tàng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương ở giai đoạn sớm của cuộc xung đột. Việc
phát triển các hệ thống phi hạt nhân, chính xác cao đó, nâng cao khả năng đột
phá hệ thống phòng thủ tên lửa đang được Trung Quốc coi là nhiệm vụ quan trọng
nhất.
Thậm chí cả ở nơi mà mô hình đuổi theo của công nghiệp quốc
phòng Trung Quốc vẫn tồn tại thì các kết quả cũng thật ấn tượng.
Trung Quốc đã vượt lên gia nhập nhóm các nước dẫn đầu về xuất
khẩu m,áy bay không người lái (UAV) lớp MALE (độ cao bay trung bình và thời
gian bay dài).
Các UAV này là những hệ thống vũ khí cực kỳ quan trọng đối với
các cuộc chiến tranh chống nổi dậy đang diễn ra ở Cận ĐÔng, nhiều khu vực ở
châu Phi và Trung Á. Đến nay, UAV Pterodactyl của công ty AVIC và CH-4 Rainbow
của tập đoàn CASC của Trung Quốc đã được Saudi Arabia, Ai Cập, Algeria, Iraq,
Nigeria, cũng như Kazakhstan, Uzbekistan ở không gian hậu Xô-viết mua sắm. Các
UAV này rõ ràng là được làm phỏng theo MQ-1 Predator của Mỹ đang được tích cực
sử dụng trong tác chiến và được mua sắm bởi các nước đồng minh của Mỹ, nhưng muốn
hạn chế sự phụ thuộc vào Washington. Trung Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên
có thể thách thức vị thế bá chủ của Mỹ trong phân khúc quan trọng này của thị
trường vũ khí. Nga hiện thời còn chưa sản xuất được các UAV lớp này.
Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn tồn tại những mặt yếu
kém. Quan trọng nhất trong số đó, theo đánh giá của đa số chuyên gia, là sự tụt
hậu trong lĩnh vực chống ngầm. Sự tụt hậu này có ý nghĩa quan trọng do Trung Quốc
phụ thuộc vào thương mại đường biển và mấy năm gần đây họ đã xây dựng được
thành phần trên biển có khả năng hoạt động thật sự đầu tiên của các lực lượng hạt
nhân chiến lược.
Trung Quốc hiện đang tư duy lại về mình trước hết như một cường
quốc biển, chứ không phải cường quốc lục địa. Trên lục địa, sau khi Liên Xô sụp
đổ, Trung Quốc không có kẻ thù tiềm tàng đáng gờm. Xu hướng liên tục cắt
giảm lục quân Trung Quốc được quan sát từ nửa cuối thập niên 1980, khi diễn ra
việc bình thường hóa quan hệ Xô-Trung.
Vươn lên đầu là hải quân với nhiệm vụ kép đặt ra. Một là, hải
quân phải đóng vai trò chủ yếu trong việc hiện thực hóa cái gọi là chiến lược
chống can thiệp - ngăn chặn sự can thiệp hiệu quả của Mỹ vào các cuộc xung đột
trong khu vực, chẳng hạn xung quanh Đài Loan. Họ đặt trọng tâm vào sản xuất các
loại tàu ngầm thông thường khá hiện đại, trong đó có các loại trang bị động cơ
không cần không khí, ché tạo các loại tên lửa chống hạm siêu âm mới, các tên lửa
đường đạn chống hạm. Điểm yếu tương đối trong lĩnh vực chống ngầm Trung Quốc
đang tìm cách bù đắp bằng việc xây dựng một mạng lưới rộng lớn các sensor thủy
âm đáy biển rộng lớn dọc theo toàn bộ đường bờ biển trong phạm vi chuỗi đảo thứ
nhất (Quần đảo Nhật Bản - Ryukyu - Đài Loan - Philippines - Indonesia). Một ưu
tiên khác là vũ khí thủy lôi.
Trung Quốc đồng thời cũng đang xây dựng hạm đội viễn dương
hùng mạnh nhằm bảo vệ lợi ích chính trị-quân sự của Trung Quốc ở các khu vực
như châu Phi và Cận Đông.
Năm 2015, Trung Quốc đã bắt tay vào xây dựng cơ sở quân sự
thường trực đầu tiên ở nước ngoài là trạm tiếp vận hải quân ở Gibouti. Tổng số
tàu khu trục trang bị hệ thống tên lửa phòng không tầm xa S-300FM và HQ-9H đã
đóng xong và đang đóng của Trung Quốc hiện đã là gần 20 chiếc - đó là nhiều
hơn số lượng tàu chiến từng được trang bị hệ thống S-300 trong Hải quân Liên
Xô.
Lực lượng đổ bộ của hải quân Trung Quốc đã vượt xa trình độ kỹ
thuật và khả năng so với lực lượng đổ bộ của Liên Xô. Họ đang xây dựng hạm đội
các tàu vận tải tiếp vận hải quân vạn năng cao tốc có kích thước khổng lồ (lượng
giãn nước đến 50.000 tấn). Ngoài tàu sân bay Varyag của Liên Xô mà Trung Quốc
đóng hoàn thiện và đặt tên là Liêu Ninh, hiện nay còn có 2 tàu sân bay đang
đóng theo thiết kế cải tiến ở Đại Liên và Thượng Hải.
Trong tương lai, Trung Quốc dự định chuyển sang đóng các tàu
sân bay hạt nhân cỡ lớn “kiểu Mỹ”, được trang bị các máy phóng máy bay điện từ
và chở theo ngoài các tiêm kích còn có cả máy bay chỉ huy/báo động sớm.
Không quân Trung Quốc đang hoàn tất thử nghiệm 2 loại máy bay
tiêm kích thế hệ 5 (J-20, J-31). Do đây là các máy bay tinh vi nên triển vọng
chúng nhanh chóng đạt khả năng sẵn sàng chiến đấu là đáng nghi. Tuy nhiên,
Trung Quốc cũng đầu tư nhiều kinh phí để chế tạo các biến thể mới của những
tiêm kích thế hệ 4 hiện có. Ví dụ, bước phát triển tiếp theo của tiêm kích
J-11B sao chép Su-27 là J-11D với khung thân cải tiến và radar với anten mạng
pha chủ động đang được thử nghiệm; tăng sản lượng sản xuất tiêm kích hạng nhẹ cải
tiến J-10B.
Việc bắt đầu trang bị từ năm 2017 các máy bay vận tải hạng nặng
Y-20 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với không quân Trung Quốc. Theo các nguồn
tin có thể tiếp cận, Trung Quốc dự định xây dựng một lực lượng không quân vận tải
chiến lược mạnh mẽ mà cùng với hải quân mạnh sẽ cho phép Trung Quốc duy trì sự
hiện diện quân sự ở những khu vực xa xôi trên thế giới. Ngoài ra, máy bay vận tải
hạng nặng nội địa còn bảo đảm cung cấp cho không quân Trung Quốc các máy bay tiếp
dầu hiệu quả và các máy bay chuyên dụng khác (máy bay chỉ huy/báo động sớm, máy
bay trinh sát điện tử...).
Trang Thư (tổng hợp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét