Chiều
7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt
Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
đã toàn thắng.
Năm
1954, trên đại ngàn Tây Bắc đất nước, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng mọi khó khăn thử thách, đập
tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp và
can thiệp của đế quốc Mỹ, dựng lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân
tộc, đồng thời làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh đến phong trào đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đến
năm 1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế,
quân sự đến mức cao nhưng thực dân Pháp vẫn không đạt được mục đích cơ bản đề
ra là tiêu diệt chính phủ cách mạng và lực lượng kháng chiến, thiết lập lại nền
cai trị trên toàn Đông Dương như trước năm 1945. Trái lại, chúng phải chịu những
tổn thất nặng nề: Thiệt hại 390.000 quân, vùng chiếm đóng thu hẹp, mâu thuẫn giữa
tập trung và phân tán lực lượng ngày càng sâu sắc...
Mặt
khác, những khó khăn về kinh tế, tài chính và phong trào đấu tranh của các tầng
lớp nhân dân trong nước ngày càng dâng cao đẩy chính phủ Pháp rơi vào cuộc khủng
hoảng chính trị mới. Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào
Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến nhằm phục
vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
Tháng
5/1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava - người được đánh giá là “một nhà chiến lược
văn võ kiêm toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương với hy vọng
sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát danh dự” dứt điểm cuộc
chiến tranh. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến trường, tháng 7/1953,
tướng Nava đề ra kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm
hai bước.
Bước
1 (Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954): Giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến
trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực đối phương; tiến công chiến lược ở
chiến trường phía Nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến, trước hết là vùng tự
do Liên khu 5 và Khu 9 của cách mạng; đồng thời ra sức bắt lính mở rộng ngụy
quân, tập trung xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh.
Bước
2 (từ Thu Đông năm 1954): Dồn lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện các
đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt quân chủ lực đối phương để giành thắng lợi
quyết định, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận đàm phán kết
thúc chiến tranh theo những điều kiện do Pháp đặt ra.
Cả
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đánh giá kế hoạch Nava là “hoàn hảo, phù hợp”,
sẽ mang đến thắng lợi trong vòng 18 tháng.
Thực
hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân đánh
phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời đưa thêm nhiều đơn vị quân
viễn chinh vào Đông Dương. Chỉ sau thời gian ngắn, địch đã củng cố, xây dựng được
84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc
bộ.
Về
phía ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn,
đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953 - 1954: Sử dụng
một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch tương đối yếu,
có nhiều sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có
thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở
khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết
trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ
lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược
là: Tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc
thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.
Chấp
hành chủ trương chiến lược đã đề ra, quân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng với
quân dân hai nước bạn Lào và Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến
trường Đông Dương buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối phó. Khối chủ lực cơ động
của địch từ chỗ tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc bộ, chỉ sau một thời gian ngắn,
chính thức “bị xé nát” thành 5 mảnh, đứng chôn chân trên 5 khu vực (Đồng bằng Bắc
Bộ, Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào) mà hầu như không thể hỗ trợ được
cho nhau.
Phối
hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, ở chiến trường sau lực địch, ta đẩy mạnh
chiến tranh du kích nhằm bảo vệ căn cứ kháng chiến, chia cắt giao thông, tiến
công diệt thêm đồn bốt, căn cứ hậu cần, uy hiếp hệ thống phòng tuyến bên ngoài
của địch... Sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, rộng khắp đã đẩy quân Pháp lún
sâu vào thế bị động. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.
Tại
mặt trận Tây Bắc, từ tháng 11/1953, trước sự tiến công của quân ta, bộ chỉ huy
quân Pháp ở Đông Dương quyết định điều quân xây dựng Điện Biên Phủ thành tập
đoàn cứ điểm mạnh. Trong toan tính của tướng Nava, Điện Biên Phủ giữ vị trí chiến
lược quan trọng nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào. Mặt khác, nơi đây là thung
lũng phì nhiêu (dài 18km, rộng 6 - 8km), giàu có nhất vùng Tây Bắc. Không gian
và địa thế đó cho phép xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút và đánh
bại chủ lực đối phương.
Đến
đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm
những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh
nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm,
chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài
không thể công phá”, công khai thách thức đối phương tiến công.
Về
phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so sánh tương quan lực
lượng địch - ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy tối cao đã quyết tâm mở chiến dịch
tiến công Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao trọng trách
Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Với
khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho
chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm
3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại
đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được
huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp
cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau
một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn
bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.
Ngày
13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau 56 ngày đêm chiến
đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không mòn”, chiều
7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt
sống tướng chỉ huy De Castries, kết thúc thắng lợi trận quyết chiến chiến lược.
Ý
nghĩa lịch sử trọng đại
Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 của quân dân Việt Nam đã đập tan những cố gắng quân sự
cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp
định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
kéo dài 9 năm (1945 - 1954). Đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân
Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam,
Lào, Campuchia.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới;
giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhà sử
học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới “Điện Biên
Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn
nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo
chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.
Cũng
từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu
tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp
phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thời đại ngày nay: Một dân
tộc bị áp bức nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối
chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân
dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược
hung bạo. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một
cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống
dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên
cao đến thắng lợi hoàn toàn”.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố: Đó là đường lối chính trị, đường
lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ
thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới
trong thời đại Hồ Chí Minh; bắt nguồn từ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu
giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc,
Liên Xô và sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ
Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là
khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của mỗi con dân đất Việt.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học - kinh
nghiệm rất quý báu: Giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng,
trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời
cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước
để giành thắng lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa
vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn
sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những
trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy
liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây
dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học - kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên
giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
LXD-H3
0 nhận xét:
Đăng nhận xét