Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một
trong những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta chiến thắng là vì đã chọn đúng con đường giải
phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản, phát huy được sức mạnh dân tộc và
thời đại. Một trong những nhân tố thời đại ấy là sự tác động, chỉ đạo, giúp đỡ
to lớn của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III).
Quốc tế III được
thành lập ngày 2/3/1919 tại Mátxcơva (Liên Xô). Trong 24 năm hoạt động, với bảy
kỳ Đại hội, Quốc tế III đã có nhiều đóng góp to lớn, chỉ đạo phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với nhiều nội
dung, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác ở từng loại hình cách mạng các nước
khác nhau. Quốc tế III đã có sự tác động, chỉ đạo, giúp đỡ hết sức to lớn với
phong trào đấu tranh cách mạng ở các nước thuộc địa nói chung, với cách mạng Việt
Nam nói riêng. Có thể khẳng định sự tác động của Quốc tế III với thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, Quốc
tế III định hướng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc; giúp đỡ, tạo điều
kiện và môi trường thuận lợi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc Quốc tế III xác định đúng đắn vấn đề dân
tộc, thuộc địa, bổ sung khẩu hiệu của C.Mác và Ph.Ăngghen đề ra trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản “vô sản tất cả các nước liên hiệp lại” bằng khẩu hiệu
“vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”; thông qua Sơ thảo
lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địado V.I.Lênin khởi
thảo và các “điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản”; coi cách mạng giải phóng dân
tộc là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản tại Đại hội lần thứ
II của Quốc tế III có một ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ đối với phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc nói chung mà đặc biệt có ý nghĩa thức tỉnh và định
hướng đối với cách mạng Việt Nam.
Trước khi Quốc
tế III thành lập, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phát triển mạnh
mẽ. Nhiều nhân sĩ, trí thức, sĩ phu yêu nước đã anh dũng, mưu lược trong tập hợp
lực lượng ở trong nước để đấu tranh chống Pháp và đi ra nước ngoài “cầu viện”,
tìm chỗ dựa. Các xu hướng giải phóng dân tộc theo lập trường dân chủ tư sản,
theo xu hướng quân chủ lập hiến và theo con đường cách mạng vô sản đã xuất hiện.
Tuy nhiên, việc cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường nào thì vẫn chưa
được xác định rõ ràng. Trong khi phải đối phó với một kẻ thù hùng mạnh hơn, có
kinh nghiệm xâm lược đã được tổng kết, có tiềm lực kinh tế - quân sự và có cả sự
liên kết quốc tế của các nước đế quốc thực dân thì sự thiếu liên kết, thậm chí
chia rẽ bởi những khuynh hướng khác nhau trong phong trào giải phóng dân tộc, sự
thiếu liên hệ quốc tế, định hướng tư tưởng đã dẫn đến thất bại.
Việc Quốc tế
III coi vấn đề dân tộc, thuộc địa, vấn đề tăng cường lãnh đạo chỉ đạo giúp đỡ
toàn diện, phối hợp hành động giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa
là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, nằm ở vị trí trung tâm chú ý của
Quốc tế Cộng sản đã định hướng cho các lực lượng yêu nước và cách mạng Việt
Nam, đoàn kết họ lại với nhau để tìm ra một con đường cứu nước giải phóng dân tộc
Việt Nam, thoát khỏi tư tưởng đi tìm chỗ dựa của những người yêu nước đương thời.
Hồ Chí Minh chú trọng nghiên cứu kỹ những văn kiện cơ bản và tư tưởng chỉ đạo của
Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng nước ta, đặc biệt đánh giá cao những tư tưởng
vĩ đại của V.I.Lênin trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa,
coi đó là “chiếc cẩm nang thần kỳ” là “con đường” giải phóng cho chúng ta, chấm
dứt tình trạng bế tắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam.
Quốc tế III đã
tạo ra môi trường hoạt động quốc tế thuận lợi giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc và những
người yêu nước Việt Nam trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập
kinh nghiệm của các đảng, các phong trào, tạo diễn đàn đấu tranh để các đảng cộng
sản ở chính quốc quan tâm đúng mức đến việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa.
Quốc tế Cộng sản
đã giao nhiệm vụ cho các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Tiệp
Khắc giúp đỡ in ấn tài liệu, chuyển tài liệu về Việt Nam. Tổ chức nhiều lớp học
ở trường Đại học phương Đông và các lớp ở Quảng Châu để bồi dưỡng đào tạo cán bộ
trong phong trào. Chính nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản thông qua các phân
bộ của mình, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam có một bước
chuyển biến căn bản từ tự phát sang tự giác, từ lẻ tẻ rời rạc đi đến có tổ chức
để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2/1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch
sử trọng đại của cách mạng Việt Nam.
Thiếu sự giúp đỡ
của Quốc tế Cộng sản hoặc trực tiếp hoặc thông qua các chi bộ của mình, chủ
nghĩa Mác - Lênin khó có thể được truyền bá vào phong trào cộng sản và công
nhân ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Những tác phẩm cơ bản nhất
như “Cộng sản sơ giải”, “Bệnh ấu trĩ tả khuynh”, “Hai sách lược của Đảng Công
nhân Nga trong cách mạng dân chủ tư sản”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khó có
thể vượt qua hàng rào kiểm soát của chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhờ có việc thâm
nhập lý luận Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cách
mạng Việt Nam đã có bước nhảy vọt về chất tạo ra những tiền đề cho việc chuẩn bị
thành lập đảng mác-xít lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Thứ hai, Quốc tế
III đã đào tạo cho Việt Nam nhiều cán bộ xuất sắc nắm giữ các trọng trách cao
trong Đảng và quốc tế.
Quốc tế III đã
đào tạo và bồi dưỡng cho cách mạng Việt Nam nhiều cán bộ ưu tú trở thành những
lãnh tụ chân chính của cách mạng Việt Nam. Thông qua việc phân công và đào tạo
trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc tế III (Trường Quốc tế
Lênin, Trường Lao động cộng sản Phương Đông) nhiều chiến sĩ cộng sản Việt Nam
đã trưởng thành trở thành các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta: Hồ Chí
Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai... Nhờ được đào
tạo cơ bản và có hệ thống mà Đảng ta có bước trưởng thành vững chắc về lý luận.
Một số chiến sĩ cộng sản Việt Nam đã trở thành những “giáo sư đỏ” tham gia vào
việc đào tạo cán bộ cho Quốc tế III. Trong 10 năm đầu thành lập Đảng, các chức
vụ chủ chốt trong Đảng như Tổng Bí thư, Bí thư các xứ uỷ, tỉnh uỷ hầu hết là do
cán bộ được đào tạo từ Quốc tế Cộng sản đảm đương. Chính vì vậy các chủ trương
của Quốc tế III được thực hiện có hiệu quả ở Đông Dương. Nhờ đó cho dù lịch sử
có những biến động, những thay đổi ở mỗi giai đoạn cụ thể khác nhau tác động đến
sự cần thiết phải có sự điều chỉnh về sách lược mà Đảng ta đề ra ngay từ thời kỳ
xây dựng Đảng là đúng đắn và chính xác. Điều đó có được chỉ có thể cắt nghĩa do
sự trưởng thành của cán bộ, đảng viên Việt Nam được đào tạo trong Quốc tế III.
Nhiều đồng chí đã được giao các trọng trách cao trong Quốc tế III. Nhiều đồng chí
trở thành cán bộ giảng dạy lý luận của Quốc tế III.
Thứ ba, Quốc tế
III đã chỉ đạo kịp thời đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Quốc tế III thường
xuyên chỉ đạo, uốn nắn kịp thời những vấn đề thuộc về đường lối, những vấn đề
chiến lược và chỉ đạo chiến lược dễ dẫn đến tả khuynh hoặc hữu khuynh trong thực
hiện - một điều khó tránh khỏi với một Đảng còn non trẻ. Quốc tế III đã đúng đắn
khi phê bình sự công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản và có chỉ thị cho Đảng
về sự cần thiết phải hợp nhất Đảng theo đúng nguyên tắc của Quốc tế III. Quốc tế
III cũng phê bình những biểu hiện tả khuynh trong Xô viết Nghệ An và Xô viết Hà
Tĩnh cùng với một vài biểu hiện hữu khuynh, cầu an, dao động sau thất bại của
phong trào. Với thái độ bôn-sê-vích và tính nhân đạo cộng sản, thái độ phê bình
và chỉ trích của Quốc tế III là có tình có lý. Quốc tế III vẫn biểu dương mặt tốt
và thấy rõ cả những sai lầm khó tránh khỏi của một Đảng còn trẻ tuổi. Thái độ
này giúp cho những người cộng sản Việt Nam đứng vững và vượt qua khó khăn trong
những năm khủng bố trắng của thực dân Pháp.
Nhờ có Quốc tế
III những người cộng sản Việt Nam có điều kiện tập hợp và kiểm điểm, đánh giá lại
phong trào thời gian qua, xây dựng Chương trình hành động năm 1932, Quốc tế III
chủ trương và chỉ đạo mở nhiều cuộc thảo luận về các vấn đề cách mạng Đông
Dương trong Quốc tế III những năm từ 1931 - 1934 để chuẩn bị cho các văn kiện
chính trị và hồi phục Đảng ở Đại hội I. Nhờ có Quốc tế III, Đảng ta kịp thời
chuyển hướng sang thời kỳ Mặt trận dân chủ và sáng tạo ra một hình thức Mặt trận
thích hợp ở Đông Dương - Mặt trận dân chủ Đông Dương mà không sa vào hình thức
mặt trận nhân dân chống đế quốc nói chung. Sự tiếp thu đường lối mặt trận của Đảng
ta trong và sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935 đã đánh dấu sự vượt
qua tư tưởng giai cấp chống giai cấp để chuyển sang sự kết hợp giai cấp - dân tộc
trong cách mạng Việt Nam. Quốc tế III đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách
mạng Đông Dương trên toàn thế giới, giúp cho các đảng cộng sản và công nhân
trên thế giới có thể học tập từ kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam.
Cao trào 1930 -
1931 ở Việt Nam được Quốc tế III xem như là “những hình thức chủ yếu” của phong
trào cách mạng dân tộc, đã “giáng một đòn trực diện” vào hệ thống đế quốc chủ
nghĩa, coi Xô viết Nghệ Tĩnh là “thành tích đặc biệt to lớn”. Quốc tế III lưu ý
các đảng cộng sản đặc biệt là Đảng Cộng sản Pháp trong lĩnh vực công tác thuộc
địa cần phải học tập nhiều ở các đồng chí Đông Dương. Chính vì vậy, từ một phân
bộ dự bị trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp, tháng 4/1931, Quốc tế III đã quyết định
công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận dự bị trực thuộc Quốc tế Cộng
sản. Hàng chục bài báo được đăng trên Tạp chí Quốc tế Cộng sản đưa tin về tình
hình và diễn tiến của phong trào cách mạng Đông Dương nhằm biểu dương phong
trào, đúc rút kinh nghiệm hoạt động và kêu gọi sự đồng tình giúp đỡ của cộng đồng
cộng sản quốc tế với Việt Nam. Quốc tế III chỉ rõ “phải triệt để tìm mọi phương
kế thực hiện việc giúp đỡ những người cộng sản Đông Dương chăm lo việc gây dựng
lại cơ sở cho Đảng Cộng sản Đông Dương”, chỉ cho những người cộng sản Đông
Dương hiểu rõ đường lối của Quốc tế III cùng những phương pháp hoạt động khôn
khéo để tập hợp lại thợ thuyền làm đội tiền phong cho cách mạng Đông Dương. Sự
hy sinh của Tổng Bí thư Trần Phú được Quốc tế III đánh giá là một tổn thất to lớn
không gì bù đắp được của giai cấp vô sản Đông Dương mà còn là một tổn thất nặng
nề của phong trào cộng sản quốc tế.
Quốc tế III đã
công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành đội tiền phong của giai cấp vô sản
Đông Dương đi theo đường lối của Quốc tế III, trực tiếp lãnh đạo thợ thuyền,
dân cày và lao động nghèo khổ xứ Đông Dương, kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc. Đó là biểu hiện của Đảng Bôn-sê-vích. Quốc tế III công nhận Đảng
Cộng sản Đông Dương là một bộ phận chính thức của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội
VII và bầu đồng chí Lê Hồng Phong là uỷ viên chính thức và là một trong hai uỷ
viên là người các nước thuộc địa.
Trong giai đoạn
thế giới đứng trước nguy cơ chiến tranh do chủ nghĩa phát xít tiến hành, Quốc tế
III đã có những chỉ đạo kịp thời về các hình thức đấu tranh, thành lập mặt trận
thống nhất, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những
tư tưởng ấy, chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên
hết, chuẩn bị về mọi mặt, chớp thời cơ, lãnh đạo toàn dân tộc tổng khởi nghĩa
thắng lợi.
Sự tác động của
Quốc tế III đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 nói riêng là sâu sắc, vai trò của Quốc tế III đối với cách mạng
Việt Nam là quan trọng, đó là những cơ sở góp phần vào mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Luận giải vai
trò Quốc tế III đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 nói riêng để chúng ta có thái độ đúng đắn đấu tranh với các
quan điểm sai trái như: phủ nhận vai trò của Quốc tế III; phủ nhận vai trò của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc vận dụng sáng tạo và phát
triển quan điểm của Quốc tế III vào hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam; phủ nhận
đóng góp của cách mạng Việt Nam đối với phong trào giải phóng dân tộc và phong
trào cộng sản quốc tế.
Luận giải vai
trò Quốc tế III cũng là cơ sở nhận thức lịch sử cụ thể để đánh giá vai trò cá
nhân của các lãnh tụ của Quốc tế III và của cách mạng Việt Nam đối với dân tộc;
đấu tranh chống tư tưởng phủ nhận, xét lại lịch sử. Đồng thời, thông qua đó,
chúng ta thống nhất tư tưởng và hành động, tiếp tục kiên trì con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội - con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn./.
LNK-H1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét