Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975 diễn ra từ ngày 04/3 đến ngày 30/4/1975, được thực hiện bằng ba đòn
tiến công chiến lược chủ yếu vào Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia Định,
kết hợp với các chiến dịch, các đợt hoạt động tác chiến và nổi dậy. Để kết thúc
thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, quân và dân ta đã vận dụng
linh hoạt, sắc sảo nghệ thuật chiến tranh nhân dân, tạo thế, lực mạnh hơn địch
nhiều lần - yếu tố quyết định giành thắng lợi - nét độc đáo của nghệ thuật quân
sự Việt Nam, để lại một số vấn đề học thuật mang tầm chiến lược.
1. Trong đòn tiến công chiến lược mở đầu
trên chiến trường Tây Nguyên, ý định ban đầu của ta là tiêu diệt một bộ phận
quan trọng sinh lực địch, giải phóng Buôn Ma Thuột và Nam Tây Nguyên, mở rộng
hành lang, nối liền Tây Nguyên với Đông Nam Bộ; thực hiện chia cắt, tạo cục diện
mới về chiến lược. Thực hiện ý định đó, việc tạo ưu thế về lực lượng và
phương tiện là một nhân tố quan trọng được Bộ Tổng Tư lệnh, người chỉ huy và cơ
quan chiến trường hoạch định tỉ mỉ, có tính nghệ thuật cao. Theo đó, ta chủ động
kết hợp giữa lực lượng tại chỗ (28 tiểu đoàn bộ binh và dân quân du kích) với lực
lượng của Bộ tăng cường (14 tiểu đoàn bộ binh) và chủ lực của Quân khu 5, miền
Đông Nam Bộ đến phối hợp (10 tiểu đoàn) hình thành tập đoàn chiến lược mạnh, tạo
được ưu thế về binh lực và phương tiện so với địch, nhất là trên hướng chủ yếu
của Chiến dịch và ở trọng điểm đột phá khẩu Buôn Ma Thuột1. Đặc biệt, trong
Chiến dịch này, nghệ thuật nghi binh, tạo thế, giữ quyền chủ động tác chiến
cũng là nét nổi bật và thành công lớn của ta ở cả cấp chiến dịch và chiến lược.
Bằng một loạt các biện pháp nghi binh công phu ta đã thu hút và giam chân khối
chủ lực cơ động của địch ở Bắc Tây Nguyên, dẫn đến sơ hở ở Nam Tây Nguyên, điều
kiện thuận lợi để ta tập trung lực lượng chủ yếu tiến công mạnh quân địch làm
cho chúng hoàn toàn bị bất ngờ và nhanh chóng thất bại. Đó chính là nghệ thuật
nghi binh, lừa địch, làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường
chính Tây Nguyên có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Mặc dù, ta chỉ tăng cường đến
chiến trường này 04 sư đoàn bộ binh (316, 968, 10, 320), song đã tạo thế áp đảo,
nhất là trên hướng chủ yếu của Chiến dịch. Cùng với đó, ta đã kết hợp khéo léo
giữa thế bao vây, chia cắt với cách đánh linh hoạt, sắc nhọn, hiểm chắc, nên
trận then chốt mở đầu Buôn Ma Thuột nhanh chóng giành thắng lợi.
Thắng lợi của
trận đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột đã tạo đà cho ta tiêu diệt Sư đoàn 23 ngụy
tại Phước An, mở ra thế phát triển về chiến dịch và chiến lược, để lực lượng vũ
trang Tây Nguyên phá vỡ thế trận phòng thủ của địch, tiêu diệt và làm tan rã
toàn bộ lực lượng của chúng ở Tây Nguyên, giải phóng toàn bộ địa bàn Tây Nguyên
và nhanh chóng phát triển tiến công xuống đồng bằng duyên hải miền Trung, cắt
đôi thế bố trí chiến lược của địch, tạo thời cơ phát triển cuộc tiến công
chiến lược thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Theo
Tài liệu tổng kết về Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của
Bộ Tổng Tham mưu (năm 1976): nếu như ở thời điểm tháng 02/1975, so sánh
tổng quân số địch, ta ở miền Nam là 1,7/1; trong đó, quân chủ lực là
1/1,03, quân địa phương là 4,9/1, đến khi ta chuyển lên Tổng tiến công và
nổi dậy trên toàn miền Nam (ngày 18/3/1975), so sánh tổng quân số
địch, ta là 1,38/1, trong đó quân chủ lực là 1/1,26, quân địa phương là
4,5/1. Thực tế cho thấy, thắng lợi của đòn tiến công chiến lược mở đầu trên chiến
trường Tây Nguyên không chỉ tạo bước phát triển mới về thế trận chiến lược, chiến
dịch, mà còn góp phần quan trọng làm cho cán cân lực lượng chiến lược
có sự thay đổi đáng kể, có lợi cho ta.
2. Trong lúc đòn tiến công chiến lược mở
đầu trên chiến trường Tây Nguyên tập trung đánh địch phản kích ở Buôn Ma Thuột
và tổ chức chặn đánh, tiêu diệt các lực lượng còn lại của Quân đoàn 2 ngụy rút
chạy trên Đường 7, thì Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 của ta đồng
loạt mở hai chiến dịch quy mô vừa, đánh địch ở đầu phía Bắc thuộc Quân đoàn 1,
Quân khu 1 ngụy. Khi đòn tiến công Tây Nguyên của ta giành được thắng lợi, làm
cho thế trận chiến lược của địch đứng trước nguy cơ bị cắt đôi, Quân khu 3 ngụy
bị uy hiếp trực tiếp, buộc địch phải rút bỏ Quảng Trị về co cụm chiến lược. Trước
sự phát triển nhanh về mọi mặt của ta trên chiến trường, ngày 24/3/1975, Bộ
Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, lực
lượng vũ trang Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 chủ lực của Bộ đã
nhanh chóng phát triển hai chiến dịch quy mô vừa, thành chiến dịch tiến công
quy mô lớn, khẩn trương tiêu diệt cụm quân lớn của địch, giải phóng Huế - Đà
Nẵng.
Trong đòn tiến
công chiến lược này, mặc dù kém chúng về quân số và vũ khí trang bị, nhưng so
sánh về ưu thế ta vẫn hơn địch, bởi nhiều yếu tố, điển hình là, thế thắng lớn ở
Tây Nguyên, thế bao vây, chia cắt hiểm và hơn nữa là bí mật, bất ngờ chớp thời
cơ tạo thế và lực áp đảo - thời cơ là lực lượng - tiến công giải quyết nhanh
các mục tiêu Huế, Tam Kỳ, Đà Nẵng. Nhờ đó, chỉ hơn 01 tháng liên tục tổng tiến
công và nổi dậy, với 02 đòn tiến công chiến lược ở chiến trường Tây Nguyên và
Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn: tiêu diệt và làm
tan rã toàn bộ lực lượng quân sự và hệ thống chính quyền ngụy ở 02 địa bàn có lực
lượng quân sự rất mạnh2, giải phóng 16 tỉnh, 05 thành phố cùng nhiều quận lỵ,
chi khu, yếu khu quân sự. Vùng giải phóng được mở rộng chiếm 3/4 đất đai và gần
1/2 dân số miền Nam. Sau thắng lợi của đòn Huế - Đà Nẵng (29/3/1975), so
sánh tổng quân số địch, ta là 1/1,14 (địch: 464.000, ta: 530.000); trong
đó, quân chủ lực là 1/1,95 (địch: 235.000, ta: 457.873); quân địa phương là
3,2/1 (địch: 229.800, ta 71.727)3. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn đấu
trí, đấu lực, cán cân lực lượng chiến lược giữa ta và địch trên chiến trường
càng có sự thay đổi lớn hơn. Trong khi lực lượng của địch giảm mạnh, thì lực lượng
của ta lại tăng với tốc độ rất nhanh.
Rõ ràng, cùng với
thắng lợi có ý nghĩa quyết định của đòn tiến công chiến lược Tây Nguyên và thắng
lợi nhanh chóng, vang dội của đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng, ta đã
đập tan ý định co cụm chiến lược của địch, góp phần làm thay đổi lớn về so sánh
thế, lực giữa ta và địch ở cả quy mô chiến lược, chiến trường. Từ đó, tạo sự nhảy
vọt về chất của cục diện chiến tranh, hoàn toàn có lợi cho ta, mở ra cục diện
chiến lược mới chưa từng có, cơ sở, tiền đề quan trọng để ta giành được những mục
tiêu chiến lược lớn hơn và sớm hơn dự kiến.
3. Đòn quyết chiến chiến lược đánh thẳng vào
sào huyệt cuối cùng của địch ở Sài Gòn - Gia Định. Trên cơ sở dự báo sớm “Kế hoạch
thời cơ”, khi thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam xuất hiện, Bộ Chính trị chủ
trương: tập trung nhanh nhất lực lượng (từ 12 sư đoàn trở lên), binh khí, kỹ
thuật và vật chất giải quyết xong Sài Gòn - Gia Định trước mùa mưa. Tiếp đó
(ngày 30/3/1975 và ngày 14/4/1975), Bộ Chính trị chính thức hạ quyết tâm mở Chiến
dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch quyết chiến chiến lược với hình thức tiến công hiệp
đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn kết thúc chiến tranh.
Nghệ thuật tạo
thế và lực trong đòn quyết chiến chiến lược này, đó chính là sự kịp thời phát
hiện, nắm bắt và tận dụng triệt để thời cơ chiến dịch, chiến lược; sự vận dụng
linh hoạt, sáng tạo mưu kế, thế, thời; nghệ thuật tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ
huy đúng đắn, tài tình,… của Bộ thống soái. Đó là những cơ sở khoa học để các lực
lượng cơ động thần tốc, tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, tiến công
và nổi dậy,… tạo ưu thế hơn hẳn cả về thế và lực, áp đảo hoàn toàn quân địch
trên từng hướng tiến công vào Sài Gòn.
Về thế, ta chủ
động, tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao;
thế của hai lực lượng, ba thứ quân; thế bao vây chia cắt; thế tiến công quân sự
và nổi dậy của quần chúng; thế đứng chân ở các vị trí xung yếu,... còn thế của
địch đang ở thế tan rã, thế hoang mang và tất yếu là thế thua trận. Về lực, ta
đã làm suy giảm lực lượng địch bằng những trận tiêu diệt lớn4. Hơn nữa, ta chủ
động xây dựng được các binh đoàn chủ lực mạnh làm chuyển biến căn bản so sánh lực
lượng có lợi cho ta, bất lợi cho địch: ta 1,7, địch 1 (riêng quân chủ lực là
3/1); về binh khí, kỹ thuật ta đã tập trung được 516 khẩu pháo mặt đất, 550 tên
lửa và pháo phòng không, 01 đại đội máy bay A37, 320 xe tăng, xe thiết giáp,...
còn lực của địch đang lâm vào trạng thái, “lực bất tòng tâm”. Đó là những thuận
lợi căn bản, tạo sức mạnh tổng hợp hơn hẳn địch, đập tan mọi cố gắng cuối cùng
của quân đội và chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, chỉ với
55 ngày đêm diễn ra cuộc đấu trí, đấu lực giữa ta và địch trên chiến trường, dưới
sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành, tổ chức, chỉ
huy mưu lược, trí tuệ, sáng tạo và linh hoạt của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư
lệnh, của người chỉ huy và cơ quan chiến trường, chiến dịch, quân và dân ta đã
làm nên kỳ tích lịch sử ở thế kỷ XX, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975. Thắng lợi đó để lại nhiều bài học quý, trong đó bài học về nghệ thuật
tạo thế và lực trong tác chiến chiến dịch mãi mãi là tinh hoa quân sự để các
thế hệ người Việt Nam tiếp tục kế thừa, nghiên cứu, vận dụng trong công cuộc
xây dựng thế và lực của nền quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc.
Ảnh: Đại tướng
Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí trong Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến
chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 4/1975). Ảnh tư liệu.
ĐTT-KBS
0 nhận xét:
Đăng nhận xét